Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận

Trái ngược với các luận điệu chống phá của các thế lực phản động, những năm qua ở Việt Nam, tự do báo chí và tự do ngôn luận lại có những bước tiến không thể phủ nhận...
Theo số liệu của cơ quan chức năng, đến tháng 8/2017, cả nước Việt Nam có trên 910 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn phẩm; hơn 20.000 nhà báo được cấp thẻ; một hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền hình, 78 kênh phát thanh; hàng trăm trang mạng xã hội… Hiện, Ðài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng 99,5% diện tích lãnh thổ, qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới. Hiện hơn 90% hộ gia đình Việt Nam đã sử dụng sóng truyền hình của Ðài Truyền hình Việt Nam. Qua nhiều hình thức cung cấp, người dân Việt Nam được tiếp xúc với 75 kênh truyền hình nước ngoài, trong đó có các kênh nổi tiếng như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg,... 20 cơ quan báo chí nước ngoài đã có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, người dân Việt Nam có thể tiếp cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới như AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times,...
Về xuất bản, ở Việt Nam có 64 nhà xuất bản. Chỉ tính riêng trong năm 2016, ngành này đã xuất bản hàng chục ngàn xuất bản phẩm có nội dung phong phú và đa dạng, với khoảng gần 400 triệu bản. Từ việc xác định vai trò của internet, Nhà nước Việt Nam có chính sách, biện pháp cụ thể để khuyến khích sử dụng internet phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm các quyền cơ bản của nhân dân. Ðó là cơ sở để năm 2016, về số lượng người sử dụng internet, Tổ chức Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) xếp Việt Nam đứng thứ ba tại Ðông - Nam Á, thứ 8 tại châu Á. Riêng với blog, trên cả nước hiện có hàng triệu người có blog cá nhân. Ða số blogger sử dụng blog làm nơi bày tỏ suy nghĩ, trao đổi tâm tình, kiến thức; thông qua blog đã hình thành nhiều nhóm sinh viên, thanh niên rất tích cực hoạt động xã hội như quyên góp giúp đỡ trẻ em nghèo, giúp người không nơi nương tựa,... Hầu như các cơ sở công cộng ở đô thị như nhà hàng, khách sạn, quán giải khát, nhà chờ sân bay,... đều có Wifi miễn phí. Tại các địa phương có ngành du lịch phát triển như Huế, Ðà Nẵng, Hội An,... kế hoạch phủ sóng Wifi đã và đang được triển khai là bằng chứng cho thấy sự quan tâm của chính quyền địa phương với sự phát triển internet.
Thực tế Việt Nam cho thấy, sự phát triển của hệ thống truyền thông không chỉ để giúp nhân dân thỏa mãn nhu cầu văn hóa, mở mang và trau dồi tri thức, mà trở thành diễn đàn với nhiều hình thức phong phú, sinh động để các tổ chức xã hội, mọi người dân có tiếng nói lành mạnh, đóng góp ý kiến, thậm chí phản biện, đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước, và của các cấp chính quyền. Trong nhiều trường hợp, hệ thống truyền thông thật sự là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền của người dân, nhất là kiểm tra, giám sát thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều cơ quan báo chí ở Việt Nam chủ động, tích cực phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, phê phán hành vi vi phạm quyền công dân cùng những biểu hiện tiêu cực khác. Gần đây, việc những cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện tại Quốc hội được truyền hình trực tiếp, việc Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố công khai để toàn dân đóng góp ý kiến, việc các cuộc tọa đàm, tranh luận, cung cấp thông tin nhiều chiều về các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước trên phương tiện thông tin đại chúng,... giúp người dân tiếp cận với các vấn đề quan trọng, từ đó đưa ra ý kiến có trách nhiệm. Vì thế hệ thống truyền thông ở Việt Nam đã trở thành một phương tiện quan trọng trong bảo vệ và phát huy các giá trị của nhân quyền.
Ðể bảo đảm cho hệ thống truyền thông theo kịp sự phát triển, bên cạnh các quy định cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan thông tin đại chúng làm tròn chức năng, nhiệm vụ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam ngày càng được phát huy cao hơn. Biểu hiện cụ thể cho quan tâm này là Việt Nam đã có Luật Báo chí và tháng 11/2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua Luật Xuất bản sửa đổi, thể hiện sự nhất quán trong tôn trọng quyền phổ biến tác phẩm của cá nhân, phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
Trên thế giới ngày nay, tự do ngôn luận và tự do báo chí là các yếu tố hết sức quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là biểu hiện trực tiếp của quan niệm, chính sách nhân quyền ở quốc gia đó. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc đều khẳng định các quyền cơ bản này, và Nhà nước Việt Nam đã luôn nghiêm túc tuân thủ các cam kết. Tuy nhiên, bất chấp các thành tựu nhân quyền của Việt Nam, các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí thường viện dẫn từ Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị để bịa đặt Việt Nam "không có tự do ngôn luận, tự do báo chí", vu cáo Nhà nước Việt Nam "vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí". Khi viện dẫn, họ đã cố tình tảng lờ việc Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền khẳng định: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và các quyền khác: "phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ". Họ cũng đã tảng lờ việc trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, để bảo đảm "Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa", về tự do ngôn luận, Công ước cho rằng thực hiện quyền này "kèm theo những nghĩa vụ, trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định". Wikipedia - nơi có thể tự do trình bày quan điểm, trong mục từ Tự do ngôn luận cũng viết: "Các hạn chế đối với tự do ngôn luận có thể theo "nguyên tắc gây hại" hoặc "nguyên tắc xúc phạm", thí dụ trong trường hợp khiêu dâm hoặc các nội dung thù ghét (nhằm hạ thấp một cá nhân hay nhóm người vì chủng tộc, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, định hướng tình dục, tật nguyền, khả năng ngôn ngữ, hệ tư tưởng, địa vị xã hội, nghề nghiệp, ngoại hình, khả năng tư duy hay bất cứ dị biệt nào...). Các hạn chế đối với tự do ngôn luận có thể được thực thi bằng luật pháp hoặc/và sự lên án của xã hội".
Trên thực tế, không chỉ ở Việt Nam mới có một số chế tài đối với hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để vi phạm pháp luật, mà ở Hoa Kỳ, CHLB Ðức, Pháp, Hàn Quốc, Singapore,... đều có luật và điều khoản luật xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những kẻ thường ca ngợi tự do báo chí của cái gọi là "Việt Nam cộng hòa" cần phải biết rằng, Ðiều 16 Hiến pháp 1956 của chế độ này viết: "Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể cộng hòa", Ðiều 12 Hiến pháp 1967 của chế độ này cũng viết: "Quốc gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục". Và không thể biện minh cho tự do ngôn luận, tự do báo chí của chế độ đó khi chỉ trong một tháng đầu năm 1975 đã "bỏ tù 19 nhà báo và đóng cửa năm báo đối lập"…

Hiện nay, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí ở Việt Nam còn gặp khó khăn khi nhận thức về pháp luật của toàn dân chưa trở thành ý thức thường trực, tự giác, hệ thống truyền thông tuy phát triển song còn thiếu chuyên nghiệp, nhất là các thế lực thù địch, một số cá nhân thiếu thiện chí lợi dụng truyền thông để tác động xấu tới xã hội, công chúng, lợi dụng việc chính quyền thực thi pháp luật để vu cáo Nhà nước Việt Nam,... Nhưng chúng ta tin tưởng rằng, từ quan điểm, chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam về tự do ngôn luận và tự do báo chí, cả trước mắt và lâu dài, mọi người dân Việt Nam sẽ được hưởng các quyền này ngày càng đầy đủ hơn, được tạo các điều kiện để phát triển toàn diện và hài hòa, từ đó có những đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của xã./.

LỊCH SỬ CÁCH MẠNG KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN


Một số năm gần đây, vào những ngày lễ lớn của đất nước, trên in-tơ-nét lại xuất hiện một số ý kiến xuyên tạc và phủ nhận lịch sử. Gần đây nhất, trước dịp kỷ niệm 72 năm thắng lợi Cách mạng Tháng 8 (1945 - 2017) trên BBC, đã có người cho rằng Cách mạng Tháng Tám là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" (?).
Thực ra ý kiến coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là "việc không nên làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim" của ông tiến sĩ nọ cũng không có gì mới. Trước đó đã có một vài giọng điệu lạc lõng khác cho rằng "ngày độc lập của Việt Nam là 11/3/1945" (đây là ngày vua bù nhìn Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập" sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao lại độc lập cho Việt Nam")! Nói cách khác thì ý kiến của ông tiến sĩ chỉ là nối dài việc "đánh lận con đen" để tảng lờ thực chất việc phát-xít Nhật giành quyền kiểm soát Đông Dương chỉ là cố gắng tuyệt vọng khi thất bại là không tránh khỏi, thêm nữa cũng để chặn trước nguy cơ bị quân đội Pháp ở Đông Dương tiến công. Tư liệu lịch sử cho thấy các sự kiện (như: hành động quân sự, lựa chọn nhân vật chính trị, thành lập chính quyền bù nhìn...) diễn ra theo kịch bản đã được tình báo của hải quân Nhật ở Đông Dương chuẩn bị kỹ lưỡng.
Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9/3/1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật và để phòng thủ. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật muốn kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc lập một bộ máy cai trị tay sai bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách. "Chính phủ" Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh đó.
Đánh giá về sự kiện này, trong bài báo nhan đề Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ? đã đăng trên tiasang.com.vn ngày 18/2/2014, sau khi khái quát các sự kiện liên quan, tác giả Trần Văn Chánh viết: "có thể thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào "tròng"..."! Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật áp giải về kinh thành. Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama (Ma-xa-y-u-ki Y-ô-kô-y-a-ma) đề nghị ông ra tuyên bố độc lập và sớm thành lập chính phủ để hợp tác với Nhật. Ngày 11-3, Bảo Đại ban bố một đạo dụ cam kết "... hợp tác toàn tâm toàn ý với đế quốc Nhật Bản". Bảo Đại hai lần gửi điện tín vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế lập nội các, nhưng rồi người được Nhật chọn vào vai trò này là Trần Trọng Kim. Ngày 30/3/1945, Trần Trọng Kim đang ở Băng-cốc được Nhật đưa về Sài Gòn, sau đó ra Huế thành lập "chính phủ" vào ngày 17/4 với bản tuyên cáo bày tỏ sự tri ân: "... không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta" và tin tưởng: "trên nhờ lòng tin cậy của đức Kim Thượng (Bảo Đại), dưới nhờ sự ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản" để "mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu" .
Không biết khi viết tuyên cáo, ông Trần Trọng Kim có thành thực tin như vậy không, nhưng trong hồi ký Một cơn gió bụi, ông viết: "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đằng làm một nẻo". Tồn tại trong thời gian ngắn từ ngày 17/4/1945 đến ngày 23/8/1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim tập hợp được một số trí thức có uy tín thời đó với nhiệt thành, thực tâm yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Trịnh Đình Thảo... và cũng cố gắng làm một số công việc hữu ích như: thống nhất về danh nghĩa phần đất Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam; quy định chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở công sở, trường học; triển khai chương trình giáo dục bằng tiếng Việt; thành lập lực lượng "thanh niên tiền tuyến" (bộ phận thanh niên yêu nước trong tổ chức này sau được "Việt Minh hóa" đã hoạt động tích cực trong khi giành chính quyền ở Huế và trong kháng chiến sau này)... Dù vậy, "chính phủ" Trần Trọng Kim thực chất vẫn được Nhật Bản bảo hộ.
Không phải ngẫu nhiên ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội các với Bảo Đại lại có sự hiện diện "tình cờ" và phê duyệt của viên cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Cũng nên chú ý tới một sự kiện là ngày 5/8/1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim đã trình Bảo Đại một văn bản xin từ chức, được Bảo Đại chấp nhận nhưng lại yêu cầu ở lại tạm thời làm việc, chờ tìm người lập nội các mới.
Tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, ích quốc lợi dân, nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim lại không quy tụ, phát huy được ý chí, sức mạnh của dân tộc. Bởi đây thực chất chỉ là một tổ chức bù nhìn, bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc để cứu đói mà "chính phủ" này cũng không thực hiện nổi. Nhưng với khẩu hiệu "Phá kho thóc Nhật" của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng, quy tụ sức mạnh đấu tranh của đông đảo quần chúng.
Đeo bám vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua bù nhìn, công khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào thế lực xâm lược ngoại bang, gây chiến tranh phi nghĩa và đang trên đường bị tiêu diệt, "chính phủ" Trần Trọng Kim không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam; do đó việc "được Nhật trao độc lập" không phản ánh tính chính danh chính trị của "chính phủ" này, chính vì thế nó đã tự đặt mình vào thế đối lập với xu thế thời đại. Dù tập hợp được một số trí thức có uy tín và muốn giương lên ngọn cờ yêu nước nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim, với hình hài và tinh thần thân Nhật, với sự ra đời và chịu sự bảo trợ, chi phối của Nhật,... chỉ là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng, cai trị của phát-xít Nhật trước thất bại không tránh khỏi, nên việc "chính phủ" đó sớm cáo chung là điều tất yếu.
Ngược lại với sự hình thành, bất lực rồi nhanh chóng tan rã của "chính phủ" Trần Trọng Kim, Mặt trận Việt Minh thành lập theo sáng kiến của Hồ Chí Minh (tháng 5/1941, khi Nhật Bản còn chưa tham chiến) đã nhanh chóng phát huy được vai trò của mình, nhanh chóng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội. Với quyết tâm "làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do", Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được tổ chức trong những Hội Cứu quốc là thành viên của Việt Minh, như: Nông dân cứu quốc; Công nhân cứu quốc; Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển trên khắp các địa bàn từ nông thôn, thành thị, tới miền núi, từ bắc vào nam đã hình thành nên phong trào Việt Minh sôi nổi, đưa tới các chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên thế và lực của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếp cận từ nhãn quan chính trị khác nhau cho nên còn có khác biệt trong đánh giá nguyên nhân, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, nhưng trong nghiên cứu của phần lớn sử gia phương Tây đều thừa nhận vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần dân tộc phù hợp với xu thế thời đại, cũng như tầm tư tưởng vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thí dụ trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời (Ho Chi Minh - a life), tác giả Wiliam Duiker (Uy-li-am Điu-cơ) bình luận về vai trò Hồ Chí Minh trong cách mạng: "... những đánh giá như vậy (xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 - TP) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám là một thành tựu phi thường... trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi".

Sự thật lịch sử đã rõ như ban ngày. Chính sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, ý chí của toàn dân khi được phát huy đến cao độ dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành động lực làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và cơ sở cho những thắng lợi của cách mạng nước ta trong những giai đoạn tiếp theo./.

Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam


Bấy lâu nay các thế lực thù địch với Việt Nam vẫn rêu rao tư tưởng "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", hòng truyền bá và kích động tư tưởng dân chủ vô chính phủ, loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Tuy nhiên, chúng ta đã nhiều lần khẳng định không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập với những lý do dưới đây:
1. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.
Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy Đảng Cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Như vậy, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tất yếu không phải là mô hình chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực. Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản bóc lột. Trả lời phỏng vấn và kết luận mới nhất của đoàn khảo sát Hoa Kỳ (6-2009) của các nhà khoa học Việt Nam cho thấy rõ điều này: Giáo sư Paul Mishler (Trường Đại học bang Indiana) khẳng định: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học… đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”(*)… Với lý do đó, đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực.
3. Lịch sử cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân, đế quốc đã xuất hiện và phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một tất yếu tự nhiên. Năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền, thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết nên trong những ngày đầu gìn giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước.
Song, trong quá trình cách mạng, các tổ chức đảng phái hoặc phản động, hoặc có đường lối không đúng đắn, không vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã lần lượt bị chính nhân dân loại bỏ, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo có đường lối cách mạng đúng đắn, vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động, vì nền độc lập và sự phát triển của đất nước đã được nhân dân lựa chọn là chính đảng duy nhất đại diện cho quyền lợi của mình.
Sau 1954, Đảng ta cũng chủ trương tổng tuyển cử tự do, thành lập chính phủ liên hiệp, thống nhất nước nhà, nhưng chính chính quyền Ngô Đình Diệm đã bác bỏ và phủ nhận thể chế đa nguyên đó. Mặt khác, được sự tiếp sức của đế quốc Mỹ, các thế lực phong kiến và phản động ở miền Nam cũng đã từng lập nên một chính thể đa nguyên với sự tham gia của nhiều đảng phái. Nhưng mục đích chính trị của các đảng phái đó lại chống lại nền độc lập dân tộc và quyền lợi của nhân dân lao động, nên nhân dân cả nước ta đã đứng lên lật đổ thể chế chính trị đó, thiết lập nên nền chính trị nhất nguyên và lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện duy nhất cho quyền lợi của nhân dân lao động và cả dân tộc. Tính tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên đó đã và đang được nhân dân ta khẳng định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã và đang không ngừng xây dựng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế trong nền chính trị nhất nguyên. Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là quyền tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện con người… Những thành tựu không thể phủ nhận của nền chính trị nhất nguyên đó đã khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
5. Dư luận quốc tế, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới đánh giá cao, ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ nhất nguyên ở Việt Nam. Trước những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, dư luận quốc tế, chính phủ nhiều nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới đã bày tỏ sự khâm phục và ủng hộ chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhiều đoàn đại biểu quốc tế sang Việt Nam nghiên cứu và học tập kinh nghiệm về xây dựng sự ổn định chính trị xã hội. Nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ngày 17-6-2007, tờ The Straits Times đã viết: “Việt Nam là đất nước ổn định, người dân làm việc chăm chỉ và đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Với những yếu tố này cộng lại, Việt Nam là mỏ vàng cho các nhà đầu tư Mỹ nào biết nắm bắt cơ hội”.
Dưới con mắt của Tiến sĩ Sổm Phắt Mana Rangsam (Thái Lan), 2 trong 4 thế mạnh của Việt Nam so với Thái Lan là các nhà lãnh đạo Chính phủ Việt Nam hiện nay là những nhân vật năng động, có khả năng điều hành kinh tế. Việt Nam có chế độ chính trị ổn định và nhất quán trong chiến lược phát triển kinh tế, Việt kiều đã có ý thức hướng về quê hương.
Còn cựu chiến binh Mỹ Thomas A.Hutchings - người đã từng tham chiến ở Việt Nam đã viết: “Việt Nam đang thay đổi và có một lịch sử đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước thật hào hùng. Bất cứ nỗ lực bên ngoài nào để áp đặt “những giá trị dân chủ kiểu Mỹ” và kêu gọi chấp nhận thể chế đa nguyên, đa đảng cho Việt Nam thì Việt Nam phải kiên quyết từ chối và bác bỏ”…
Còn nhiều lý do khác để khẳng định sự bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam là có cơ sở lý luận và thực tiễn đúng đắn. Để củng cố quyết tâm chính trị này, cán bộ, chiến sĩ LLVT và nhân dân ta cần tiếp tục trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức chính trị, đề cao tinh thần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm và tư tưởng thù địch sai trái, giữ vững ổn định chính trị ở nước ta.




Không có quân đội trung lập, “siêu giai cấp”


Nhiều năm qua, các thế lực phản động luôn thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội - một thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội “tự diễn biến”, mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới làm cho quân đội bị vô hiệu hóa.
Thực hiện âm mưu thâm độc đó, chúng xuyên tạc, phủ nhận hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới ở nước ta. Lợi dụng tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hóa biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và những khó khăn về kinh tế, xã hội của nước ta, chúng kích động, gây chia rẽ, hòng làm mất lòng tin của nhân dân và Quân đội ta vào Đảng Cộng sản Việt Nam; đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp hiện hành khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; đòi bỏ hệ thống tổ chức đảng và cán bộ chính trị trong quân đội.
Chúng xuyên tạc lịch sử, đảo lộn tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm của nhân dân ta; kích động gây mâu thuẫn giữa quân đội với nhân dân, giữa quân đội với công an, giữa cán bộ với chiến sĩ trong quân đội, nhằm làm phai nhạt bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp và phủ nhận những cống hiến, hy sinh lớn lao của quân đội ta đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc; truyền bá vào quân đội lối sống thực dụng, thờ ơ chính trị, nhằm “pha loãng”, làm nhạt dần bản chất cách mạng của quân đội ta, tạo điều kiện cho hệ tư tưởng tư sản thẩm thấu vào đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội v.v…
Quân đội ta ra đời từ phong trào cách mạng của dân tộc, chiến đấu, hi sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hơn 70 năm qua, Quân đội ta chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn được giữ vững và phát triển. Tuy nhiên, trước những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta ở những mức độ nhất định đã có những biểu hiện sao nhãng chính trị, suy giảm đạo đức, lối sống… Những hiện tượng này đã và đang gây tác hại không nhỏ đến bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
Đấu tranh, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó cần chú trọng một số nội dung chủ yếu sau:
Tăng cường giáo dục, giác ngộ bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng phải làm cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhận thức sâu sắc rằng, quân đội của bất cứ nước nào, bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó; không có quân đội trung lập, “siêu giai cấp”, đứng ngoài chính trị. Quân đội ta do Đảng và Bác Hồ kính yêu tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân Việt Nam. Đồng thời, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng phải làm cho bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta luôn được củng cố và phát triển mạnh mẽ trong tư tưởng, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Làm cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường cách mạng của Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, kiên trì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới; có ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, có năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp, tác phong công tác tốt, lối sống trung thực, giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong quân đội. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội; tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị (khóa IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Nghị quyết 513 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị. Đồng thời, phải không ngừng chăm lo xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Coi trọng xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị quân đội. Thực hiện tốt vấn đề này có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của các tư tưởng văn hóa xấu độc vào quân đội. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và nhân dân không để cho các thế lực thù địch có cơ hội lợi dụng truyền bá các ấn phẩm văn hóa xấu độc vào quân đội; tiếp tục thực hiện xây dựng môi trường “xanh, sạch, đẹp”, tổ chức tốt hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí lành mạnh trong giờ nghỉ, ngày nghỉ để thu hút cán bộ, chiến sĩ, tạo những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa - tinh thần, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, góp phần phát huy những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong tình hình mới.
Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Đấu tranh trực diện với địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội có tầm quan trọng đặc biệt và trở thành mặt trận nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta; vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của các thế lực thù địch. Luận điệu cho rằng “quân đội trung lập về chính trị”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn, thực chất nhằm “chuyển hóa” lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta.

Âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội là nhằm làm biến chất bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta, làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, dẫn đến bị vô hiệu hóa. Do vậy, đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của kẻ thù, giữ vững và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội trong tình hình mới là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Mọi cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc nhiệm vụ đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, tích cực góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân đấu tranh làm thất bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta.

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, ĐỐI PHÓ VỚI “CHIẾN TRANH TÂM LÝ” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


  Chiến tranh tâm lý gắn liền với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa đế quốc. Nó manh nha xuất hiện từ khi xã hội có giai cấp và sự phân chia giai cấp, nhất là khi chủ nghĩa xã hội hiện thực xuất hiện và trở thành đối trọng của chủ nghĩa đế quốc, thì sự chống đối của chúng càng trở nên quyết liệt hơn hòng đánh đổ sự hiện diện của chế độ mới.
Theo nghĩa rộng thì chiến tranh tâm lý đồng nhất với cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Đó là sự kế tục của chính trị, là phương tiện và phương thức đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc. Theo nghĩa hẹp, chiến tranh tâm lý chẳng qua chỉ là một hệ thống tác động tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc nhằm vào ý thức con người chủ yếu thông qua lĩnh vực tâm lý - xã hội. Đó là hệ thống các tác động phá hoại về tâm lý, tung tin đồn nhảm, đe doạ, khuyếch trương thanh thế…nhằm gây sức ép tâm lý với “đối phương”, khiến cho đối phương mất phương hướng và suy yếu về sức mạnh vật chất cũng như tinh thần.
Các thủ đoạn tiến hành chiến tranh tâm lý của chủ nghĩa đế quốc mang đặc trưng chung là “dối trá và lừa lọc”, tận dụng mọi thành tựu của tâm lý học, kết hợp với dụ dỗ, mua chuộc, hoặc đe doạ, khống chế, nhằm thực hiện tham vọng bóp méo sự thật, tạo ra các quan niệm sai lệch về thực tại, hình thành trong ý thức con người những quan điểm, tư tưởng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Phương tiện được quan tâm nhiều nhất, giữ vai trò chủ đạo trong chiến tranh tâm lý là các phương tiện thông tin đại chúng như các hãng phát thanh, truyền hình, thông tấn báo chí, điện ảnh…Đây là những phương tiện được coi là công cụ có sức mạnh thứ tư của một quốc gia ngoài phương tiện ngoại giao, kinh tế và quân sự.
Khẳng định chiến tranh tâm lý và chống chiến tranh tâm lý là vấn đề có từ rất sớm, nguồn gốc của nó là từ sự ra đời của giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại. Mục đích là nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Chiến tranh tâm lý là vấn đề xã hội mang tính lịch sử. Chiến tranh tâm lý là một vấn đề vô cùng phức tạp, là một phần trong hệ thống các biện pháp tác động của chủ nghĩa đế quốc vào đối phương, trong đó kẻ địch luôn chú trọng đánh vào lĩnh vực tư tưởng, tâm lý - xã hội, làm lung lay hệ tư tưởng và các truyền thống phong tục tập quán, đạo đức lối sống của con người đối phương, dẫn đến làm tê liệt và mất ý chí chiến đấu.
Để phòng ngừa, đối phó với chiến tranh tâm lý của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó cần chú ý một số biện pháp sau:
Một là, tổ chức nắm vững những diễn biến của các hiện tượng tâm lý xã hội, chú ý định hướng dư luận và khắc phục tin đồn. Các hiện tượng tâm lý xã hội luôn là những vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Kẻ địch thường tấn công vào những nơi, những vùng mà chúng cho rằng có sự “mù mờ” nhất trong mỗi con người xã hội. Đó là các hiện tượng tinh thần, tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội. Trên cơ sở đó chúng xuyên tạc, bôi nhọ về Đảng, Nhà nước, về cá nhân các nhà lãnh đạo, gây ra sự chia rẽ nội bộ, tâm trạng hoài nghi trong nhân dân, đặc biệt là đối với nhân dân những nơi có trình độ dân trí thấp, thiếu thông tin. Trong các hiện tượng tâm lý xã hội thì dư luận được coi như là một kết cấu đặc thù của ý thức cộng đồng, là trạng thái tâm lý của tập thể ở những thời điểm khác nhau với những mong muốn chủ quan của con người. Dư luận xã hội là những luồng ý kiến đánh giá chung của quần chúng trong các tập thể xã hội, biểu thị những quan điểm, thái độ của mình đối với các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong xã hội có liên quan tới nhu cầu, lợi ích của cá nhân và cộng đồng, thể hiện những giá trị, chuẩn mực mà con người sống và hoạt động.
Vấn đề tin đồn cũng là một hiện tượng tâm lý xã hội phức tạp nảy sinh trong cuộc sống cộng đồng. Tin đồn thường xuất phát từ những thông tin không chính thức, đó là những thông tin không rõ ràng, thậm chí có thể chỉ là những thông tin xuất phát từ trí tưởng tượng của một cá nhân được lan truyền bằng con đường không chính thức như rỉ tai, to nhỏ, ngấm ngầm, nửa kín, nửa hở. Tin đồn thường mang màu sắc chủ quan của người truyền tin. Vì vậy, trong chiến tranh tâm lý kẻ địch thường rất hay sử dụng thủ đoạn tung tin, đồn nhảm thất thiệt vào trong nội bộ quần chúng nhân dân và quân đội nước đối phương, nhằm thao túng nhận thức, lẫn lộn thật giả, gây ra trạng thái tâm lý nghi ngờ, hoang mang, dao động, làm náo loạn trật tự xã hội, làm tê liệt sản xuất, chia rẽ tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong cộng đồng dân cư và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang.
Để chống lại các tin đồn diễn ra trong các tập thể xã hội, cần phải thường xuyên bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, có định hướng cho quần chúng nhân dân theo các quan điểm của Đảng và yêu cầu của xã hội. Khi xuất hiện tin đồn cần nhanh chóng tìm ra nguyên nhân nguồn phát tin, người đưa tin ban đầu, ngăn chặn không để tin đồn lan rộng, sử dụng các biện pháp tâm lý xã hội để xử lý khắc phục tin đồn như yêu cầu người tung tin cải chính, dùng người có uy tín, kinh nghiệm về vấn đề đó để giải thích cho mọi người hiểu rõ sự thật, đồng thời phát huy vai trò của các cán bộ chủ trì, cán bộ nòng cốt trong đơn vị trong việc tạo ra những dư luận tập thể tích cực, ngăn chặn dư luận tiêu cực và tin đồn thất thiệt xuất hiện trong tập thể và xã hội.
Hai là, xây dựng “sự miễn dịch tâm lý” trong các tầng lớp nhân dân, kể cả trong nội bộ Đảng và mỗi đảng viên. Miễn dịch tâm lý là một trong những phẩm chất chính trị, tư tưởng, phẩm chất tâm lý quan trọng để vô hiệu hoá và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Đây là yếu tố, là phương tiện và là vũ khí ngăn ngừa “sự miễn dịch tâm lý”. Một khó khăn cho việc xây dựng sự miễn dịch tâm lý hiện nay ở nước ta là: một mặt vừa phải thực hiện đường lối “mở cửa” và chính sách ngoại giao đa phương, mặt khác phải thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những mặt tích cực và cả những tác động tiêu cực từ mặt trái của nó. Do đó, đặt ra cho Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội cần phải thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng cho được “sự miễn dịch tâm lý” chống lại sự xâm nhập, phá hoại của những nọc độc chiến tranh tâm lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình xây dựng tạo ra sự miễn dịch tâm lý phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng nhằm bảo vệ vững chắc trận địa ý thức hệ của Đảng và nhân dân ta. Thực chất của quá trình xây dựng “sự miễn dịch tâm lý” là: trên cơ sở xây dựng một nền tảng chính trị - tư tưởng vững chắc, nhân dân ta tự xây dựng cho mình khả năng chống lại các tư tưởng văn hoá xấu độc, tăng cường chất đề kháng cho cơ thể, sử dụng mọi biện pháp ngăn cản, chặn đường bịt lối, loại bỏ sự gia nhập của các tư tưởng, văn hoá lối sống độc hại vào con người xã hội.
Tuy nhiên cần phải xác định rằng, tạo ra sự miễn dịch tâm lý cho con người trước những âm mưu tấn công của chiến tranh tâm lý là một vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn nhưng vô cùng cần thiết đối với bất kỳ quốc gia nào. Muốn thực hiện tốt giải pháp này trước hết phải tiến hành vạch trần những âm mưu thâm độc của “chiến tranh tâm lý” từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong nhân dân, phải chuyển một cách cơ bản tâm trạng bất lợi hiện nay trong xã hội thành tâm trạng tích cực như tạo ra sự hồ hởi, phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đất nước đang diễn ra đã và đang thu được nhiều thành tựu to lớn. Sử dụng và phát huy hiệu quả của tất cảc các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền, đấu tranh. Xây dựng và đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng trong nhân dân, hạn chế và loại bỏ những tác động tiêu cực do chiến tranh tâm lý đem lại.
Ba là, tổ chức xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong các tập thể và trong toàn xã hội. Môi trường văn hoá lành mạnh chính là nơi nuôi dưỡng và hoàn thiện những giá trị văn hoá trong nhân cách, tạo ra sức đề kháng ngăn chặn sự chống phá của chiến tranh tâm lý, sự thâm nhập của nọc độc văn hoá tư sản vào mỗi con người và toàn xã hội.
Để xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh đủ sức chống lại những tác động của chiến tranh tâm lý cần đảm bảo một số yêu cầu sau đây:
Thường xuyên có những tác động tích cực tới mọi thành viên bằng cách làm cho họ thấm nhuần những giá trị văn hoá truyền thống, tích cực đấu tranh chống lại những hiện tượng tiêu cực, những yếu tố phản giá trị văn hoá trong môi trường văn hoá cộng đồng; Hình thành tâm trạng tích cực, bầu không khí tâm lý lành mạnh trong các tập thể và ngoài xã hội.
 Nâng cao trình độ nhận thức về văn hoá nghệ thuật cho mọi người, xây dựng và lưu truyền những giá trị văn hoá truyền thống, lòng tin, niềm tự hào của mỗi cá nhân, đồng thời giúp con người biết phân biệt, phê phán những thái độ hành vi phản văn hoá, phát triển sáng tạo và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
 Xây dựng hệ thống các chuẩn mực giá trị văn hoá, trong đó cần chú ý xây dựng các giá trị thuộc nhân tố dân tộc, giai cấp, nhân loại, làm cho các giá trị của nhân tố đó hoà quyện chặt chẽ, tạo nên nhiều tầng văn hoá đa dạng, phong phú trong xã hội.
Đa dạng hoá các hoạt động văn hoá trong cộng đồng, nâng cao chất lượng dịch vụ văn hoá đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân.
Bốn là, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc. Các nhà khoa học đã khẳng định rằng, cội nguồn của sức mạnh dân tộc ta được bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân tộc, từ những tinh hoa văn hoá được các thế hệ kế thừa và phát triển trong các thời kỳ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống cách mạng luôn được xem là vốn quý giá, là cẩm nang thần kỳ, đồng thời là thẻ căn cước đáng tin cậy để chúng ta có thể hội nhập mà không bị hoà tan, để mỗi người Việt Nam có khả năng miễn dịch với những ảnh hưởng xấu độc của kẻ thù trong âm mưu “diễn biến hoà bình”, đồng thời làm vô hiệu hoá sự phá hoại của chiến tranh tâm lý của kẻ địch. Giữ gìn truyền thống dân tộc cần làm tốt  một số yêu cầu:
Giữ gìn và phát huy những giá trị tiêu biểu của văn hoá dân tộc nhằm chống lại sự xâm thực, đồng hoá của văn hoá ngoại lai, phát huy truyền thống cách mạng trong các thế hệ kế tiếp.
Kiên quyết đấu tranh với những xu hướng coi nhẹ những giá trị truyền thống, phủ nhận quá khứ, reo rắc lối sống tư sản thực dụng trong nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Tổ chức và thực hiện tốt những nội dung, hình thức giáo dục truyền thống trong tình hình hiện nay, làm cho nhân dân và nhất là thế hệ trẻ biết phát huy một cách sáng tạo những giá trị truyền thống của các thế hệ cha anh đã tạo dựng trong quá khứ, xây dựng những giá trị truyền thống mới trong giai đoạn của cách mạng mới.


NHẬN DIỆN CÁC HƯỚNG TIẾN CÔNG CHỦ YẾU CỦA “CHIẾN TRANH TÂM LÝ” DO CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG TIẾN HÀNH


Mục tiêu của chiến tranh tâm lý do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành được thực hiện nhằm tiến công vào tất cả các lĩnh vực đời sống mỗi quốc gia dân tộc đối phương, như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, và ngoại giao.
Hướng thứ nhất, tiến công vào lĩnh vực kinh tế của đối phương, vấn đề kinh tế trong chiến tranh tâm lý không chỉ đơn thuần là những gì về vật chất phục vụ cuộc sống con người, mà trong con mắt của các nhà kinh tế học, mà nó mang sắc thái của cuộc đấu tranh giai cấp. Xuất phát từ vai trò to lớn của kinh tế đối với sự thành bại của mỗi quốc gia, đặc biệt là vai trò quyết định của kinh tế trong chiến tranh, nhất là chiến tranh hiện đại. Xét một cách tổng thể tương quan so sánh lực lượng giữa hai chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, thì chủ nghĩa tư bản đang tạm thời chiếm ưu thế, kẻ địch có sự vượt trội hơn về kinh tế so với các nước có chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc vẫn chủ trương âm mưu thôn tính các nước bằng thủ đoạn tấn công vào lĩnh vực này bởi tầm quan trọng quyết định của kinh tế trong chiến tranh cũng như trong cạnh tranh chiếm giữ vị trí lãnh đạo thế giới của chúng. Hiện nay, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp, các nước còn lại cơ bản đang phát triển theo xu hướng tư bản chủ nghĩa. Triệt để lợi dụng ưu thế và sức mạnh kinh tế của mình, các nước tư bản chủ nghĩa đang ra sức thâm nhập hoà bình bằng các thủ đoạn kinh tế tiến tới chuyển hoá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại phát triển theo con đường tư bản. Mặt khác, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường sẽ không thể tránh khỏi những mặt hạn chế và tiêu cực, đây sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự tấn công của chủ nghĩa tư bản vào cơ sở của đời sống kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa nhằm đạt được âm mưu của chúng.
Trong những năm qua chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Song, so sánh với xu thế và trình độ phát triển của nền kinh tế nhiều nước trên thế giới thì nền kinh tế của ta còn lạc hậu và là nước kém phát triển. Do đó, chủ nghĩa đế quốc thường xuyên, triệt để lợi dụng những sơ hở, khiếm khuyết của ta để tiến hành các hoạt động xâm nhập, phá hoại, kìm hãm, chuyển hoá nền kinh tế phát triển chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa, hoặc làm cho nước ta trở thành một thị trường lệ thuộc vào chúng. Trên thực tế cuộc chiến tranh tâm lý trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam đang diễn ra với nhiều thủ đoạn hết sức phức tạp và tinh vi như: ngăn cản, phá ta về cơ sở vật chất, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế nói chung và kinh tế quân sự nói riêng…vv, và thông qua sự chống phá ta trên lĩnh vực kinh tế để làm cơ sở chống phá trên các lĩnh vực khác, lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hoá. Nghiên cứu các thủ đoạn của chiến tranh tâm lý trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta, có thể thấy nổi lên một số nội dung cơ bản đó là: Sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc đi tới xoá bỏ các quan điểm tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách, chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta; Sử dụng ưu thế sức mạnh kinh tế làm công cụ đắc lực thúc đẩy nhanh nền kinh tế của chúng ta đi chệch hướng khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Đây là những âm mưu, thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ thường xuyên đặt ra hàng đầu nhằm chống phá cách mạng nước ta nói chung và phá hoại cơ sở kinh tế của nước ta nói riêng, nhất là trong xu thế tất yếu của thời đại là hợp tác, giao lưu quốc tế ngày càng đang được mở rộng. Bởi vậy, chúng ta cần luôn luôn cảnh giác đấu tranh nhằm làm thất bại âm mưu thâm độc này của chúng.
Hướng thứ hai, tiến công vào chính trị và hệ thống chính trị của các nước đối lập với chúng. Nhận thức rõ chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Mục tiêu cơ bản của chiến tranh tâm lý chính là nhằm chuyển hoá hoặc lật đổ chính quyền của các nước đối phương không phải bằng bạo lực mà bằng các biện pháp “mềm” như: tư tưởng, tâm lý. Theo các nhà phân tích tâm lý học quân sự thì “hướng tấn công này có tiền duyên cực kỳ rộng và trung thâm cực kỳ sâu”[1]. Mục tiêu cơ bản của mũi tấn công này là nhằm vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hòng làm mất phương hướng chính trị và đập tan các giá trị của chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng với nó là sự tuyên truyền khêu gợi đi theo con đường thứ ba lấy tư tưởng xã hội dân chủ thay thế chủ nghĩa xã hội. Đứng trên lập trường quan điểm Mác xít các nhà nghiên cứu tâm lý học quân sự Việt Nam khẳng định: “Trọng điểm của hướng tấn công của chiến tranh tâm  lý vào hệ thống chính trị là Đảng Cộng sản, vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, tức vào hạt nhân của hạt nhân lãnh đạo”[2]. Thực chất của việc tấn công vào chính trị và hệ thống chính trị là cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn giữa Đảng Cộng sản và các thế lực thù địch xoay quanh vấn đề chính quyền, nhà nước. Bởi vậy, trong cuộc đấu tranh này Đảng ta đặc biệt coi trọng các biện pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các âm mưu thâm độc của kẻ thù, trong đó chủ trương không ngừng hoàn thiện làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Hướng thứ ba, vấn đề nhân quyền là một mục tiêu của chiến tranh tâm lý. Vấn đề quyền con người đã được mỗi quốc gia khẳng định, thừa nhận và đưa vào hiến pháp của mình nhằm bảo vệ quyền đó cho mỗi công dân của mình. Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng vấn đề nhân quyền, quyền con người để đưa ra các chiêu bài bảo vệ nhân quyền, bảo vệ quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền hòng thao túng, điều khiển, lôi kéo, áp đặt hoặc trừng phạt theo mục đích của chúng. Thực chất bảo vệ nhân quyền là các thế lực thù địch khuyến khích, kích động và bảo vệ các hoạt động chống đối công khai về chính trị đối với các nước đối phương. Trên thực tế thời gian gần đây việc tấn công trên hướng này đã diễn ra ở nước ta và một số nước khác trên thế giới, điều đó đã chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động luôn tích cực áp dụng chiêu bài này nhằm tạo cớ gây chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, làm mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, tạo ra trong xã hội một bộ phận bàng quan, thờ ơ chính trị, tạo ra những lực lượng gây rối, chống đối lại chế độ, khi cần thiết có thể can thiệp vào độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia của các nước. Nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và các hướng tấn công của kẻ thù Đảng ta đã vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh, tỉnh táo, kiên quyết và mềm dẻo nhằm tránh để kẻ địch lợi dụng những sơ hở, yếu kém gây ra tình trạng mất ổn định về chính trị, kinh tế, rối loạn trật tự an toàn xã hội.
Hướng thứ tư, tâm lý xã hội được coi là tiêu điểm tác động của chiến tranh tâm lý, cùng với hệ tư tưởng, tâm lý xã hội là một bộ phận cấu thành ý thức xã hội của mỗi quốc gia. Mục tiêu của chiến tranh tâm lý là con người và tâm lý của con người với tất cả sự phức tạp, phong phú đa dạng của nó. Tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý, những quy luật tâm lý được hình thành trong các quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Đó là các hiện tượng như: nhu cầu tập thể, tình cảm giai cấp, ý chí quần chúng, tâm trạng và dư luận xã hội, tính cách dân tộc của nhóm, đoàn thể, tổ chức và các thành viên trong nhóm... Tâm lý xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội và nó có quan hệ chặt chẽ với hệ tư tưởng. Trong tâm lý xã hội còn bao hàm cả những yếu tố, những hiện tượng tâm lý mang tính giai cấp và không mang tính giai cấp. Song có thể khẳng định các hiện tượng tâm lý xã hội có tác động rất to lớn đến đời sống tâm lý của cá nhân và toàn xã hội nhất là dư luận và tâm trạng xã hội...vv.
Xuất phát từ vai trò to lớn của tâm lý xã hội và mối quan hệ của nó đối với hệ tư tưởng như đã đề cập trên đây, mà kẻ địch triệt để sử dụng các hình thức, biện pháp nhằm tác động vào các hiện tượng tâm lý xã hội nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối của chúng hòng làm thay đổi ý thức xã hội của quần chúng nhân dân ở các nước đối phương theo hướng có lợi cho chúng.
 Hướng thứ năm, tiến công phá hoại sự đoàn kết thống nhất cộng đồng trong những quốc gia đa dân tộc. Do sự phát triển và hợp tác giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng, sự di dân tự do, hoặc luật định cư ở nước ngoài của nhiều nước cho phép, đã dẫn đến ở các nước đã xuất hiện nhiều tộc người khác nhau làm cho một số quốc gia trở thành những nước đa sắc tộc, kéo theo sự đấu tranh, xung đột dân tộc, sắc tộc, nạn phân biệt chủng tộc trên thế giới đã và đang diễn ra hết sức phức tạp và ngày càng gay gắt, ngày nay vấn đề đó đang trở thành nguy cơ của nhân loại.
Lợi dụng tâm lý và tình cảm dân tộc, chủ nghĩa đế quốc sử dụng chiêu bài chiến tranh tâm lý nhằm tuyên truyền, bịa đặt nhằm khoét sâu những mâu thuẫn, thù hằn dân tộc, lợi dụng trình độ dân trí thấp, sự kém hiểu biết và đời sống kinh tế còn khó khăn ở một số vùng núi cao, vùng dân tộc ít người, kẻ địch đã dung túng, gây dựng và làm hậu thuẫn cho một số tổ chức phản động làm “nội ứng” tiến hành biểu tình, đòi li khai gây mất ổn định trong các quốc gia này.
Một số thủ đoạn mà kẻ địch thường sử dụng ở Việt Nam chúng ta là, phá hoại mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; tuyên truyền kích động tâm lý dân tộc theo hướng cực đoan, kích động tư tưởng hận thù dân tộc, tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa; xây dựng và tổ chức hậu thuẫn, nuôi dưỡng các lực lượng chống đối; thông qua con đường kinh tế, ngoại giao và một số tổ chức quốc tế để áp đặt những quan niệm và giá trị tư sản phản động; khuyến khích phát triển chủ nghĩa cá nhân...vv.
Hướng thứ sáu, sự thẩm thấu của văn hoá tư sản trong chiến tranh tâm lý. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hoá mang đậm màu sắc của mình. Văn hoá là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội, được thể hiện trên các mặt của đời sống vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của một dân tộc, một quốc gia. Văn hoá được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ sau. Từ vị trí, vai trò to lớn của văn hoá, kẻ địch đã lợi dụng văn hoá và sử dụng nó như một công cụ, một thứ vũ khí để tấn công vào các nước đối phương trong chiến tranh tâm lý. Bằng những thủ đoạn như tự cho mình là những người của thế giới văn minh, cho nên cần phải có trách nhiệm đi khai hoá văn minh cho các dân tộc khác, tự tâng bốc xã hội tư sản, văn hoá tư sản làm cho các tầng lớp nhân dân các nước đối phương bị ảnh hưởng của các giá trị văn hoá tư sản, quay lưng lại với các giá trị văn hoá truyền thống.
Ở nước ta, những ảnh hưởng của văn hoá xấu độc tư sản là không thể coi thường, nhất là nguy cơ đối với tầng lớp và bộ phận dân cư nhất là lớp trẻ. Những tư tưởng thực dụng, lối sống buông thả, sa đoạ, ích kỷ, hư vô, cá nhân chủ nghĩa, chạy theo những giá trị vật chất đơn thuần xa rời các giá trị, chuẩn mực văn hoá truyền thống của dân tộc, những tệ nạn xã hội khác như mê tín, dị đoan, những tập tục cổ hủ lạc hậu đang có chiều hướng phục hồi và phát triển. Chắc rằng sự xâm nhập của văn hoá tư sản sẽ còn diễn ra phức tạp với nhiều thủ đoạn và hình thức đa dạng khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần cảnh giác, đề phòng và có những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh chống lại chúng.



[1]Hoàng Đình Châu (chủ biên), Ngô Minh Tuấn, Nguyễn Đình Gấm (2002), Chiến tranh tâm lý và chống chiến tranh tâm lý, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 44.
[2] Sđd, tr. 46.

Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin


 Trong thời gian qua, trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị tiếp tục chống phá ta toàn diện hơn, quyết liệt hơn. Ngoài các “giai điệu, điệp khúc” thường xuyên chúng vẫn khai thác sử dụng; các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị còn dùng nhiều “chiêu bài, ngón đón mới” tinh vi, xảo quyệt, thâm độc và bỉ ổi để nói xấu, bôi đen, hạ bệ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, nổi lên 8 trọng điểm chúng tập trung chống phá đó là:
Thứ nhất, tiếp tục xuyên tạc, bóp méo sự thật để tước bỏ, phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền mác xít kiểu mới, xuyên tạc bản chất người cộng sản, tuyên truyền chủ nghĩa dân túy.
Thứ hai, tiếp tục cắt xén, thêm bớt làm sai lệch các nguyên lý, lý luận nền tảng tư tưởng của của Đảng; đối lập, phủ nhận học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; triệt để khai thác các mặt trái, lề trái, phản diện hoặc bịa đặt, tạo dựng, suy diễn, đồn thổi, lan truyền thông tin sai trái trên các lĩnh vực để xuyên tạc tình hình của đất nước.
Thứ ba, tập trung xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, trắng trợn vu khống, gán ghép, buộc tội Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh tụ của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và Quân đội mắc những sai lầm, khuyết điểm này nọ nhằm hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ tư, xuyên tạc chống phá Nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 5 khóa XII; thổi phồng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của ta; xuyên tạc chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta đang rơi vào bế tắc, kinh tế thị trường đang mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ, tình hình dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam, lợi dụng vụ việc giải quyết đất đai ở Đồng Tâm, Mỹ Đức, vụ việc linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục xúi giục giáo dân khiếu kiện công ty Fomosa và bắt đối tượng Hoàng Văn Bình để tung tin sai lệch chính quyền đàn áp nhân dân, phân biệt lương – giáo, bắt người trái pháp luật, gieo rắc các lý thuyết dân chủ tư sản.
Thứ sáu, xuyên tạc chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, kích động quân đội làm theo “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa”, đảo chính, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc quân đội làm kinh tế, đàn áp nhân dân, đòi “phi chính trị hóa” quân đội nhân dân và công an nhân dân, kêu gọi lực lượng vũ trang trung lập.
Thứ bảy, tiếp tục phủ nhận Hiến pháp mới, đặc biệt chĩa mũi nhọn vào phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chế độ xã hội, nhà nước, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ tám, phủ nhận thành tựu 31 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; gây tư tưởng “chán trường”, “mất niềm tin”, hoang mang dao động trong nội bộ Đảng và quần chúng nhân dân.
Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và đối tượng cơ hội chính trị rất đa dạng, toàn diện, không chỉ “gây gió từ bên ngoài” để “tạo bão từ bên trong”, đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gây mâu thuẫn nội bộ ta, mà còn lợi dụng triệt để mạng internet, mạng xã hội, facebook, i-phone nhắn, gửi, tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ nhiều người cùng kết nối và tham gia vào các tổ chức, hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng. Chúng đẩy mạnh móc nối, liên kết, liên thông với nhau, tuyên truyền, phỏng vấn, trả lời báo chí, bình luận những vấn đề lý luận, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân đội, vu cáo và hướng lái hòng định hướng, lôi kéo, kích động những tư tưởng, hành động sai trái trong xã hội, các lực lượng vũ trang.
Về lực lượng, vẫn là các đối tượng, các tổ chức, những người bất đồng chính kiến, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, môi trường ở trong nước, móc nối với các tổ chức phản động nước ngoài như: Tổ chức Ân xá Quốc tế, “Hội Cựu tù nhân lương tâm”, Việt Tân, giới truyền thông phương Tây (BBC, RFI, RFA, VOA…) liên kết cùng phát tán tài liệu với tư tưởng, quan điểm phản động, thù địch.
 Hình thức, phương tiện tiến công tư tưởng vẫn cơ bản là khai thác mạng Internet, mạng xã hội, youtube; mới đây nhất chúng đã triệt để sử dụng báo đọc trên “youtube Hội nghị diên hồng” từ nước ngoài, thu âm và phát tán rộng trên mạng và gửi đến các tài khoản cá nhân… để phát tán rộng khắp các bài viết, thư ngỏ, lời kêu gọi gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đảng viên của Đảng, cán bộ, nhân dân, đồng bào có đạo chống phá chế độ, hòng tác động đến tư tưởng, tâm lý nhân dân và cán bộ, chiến sĩ các LLVT.

          Điều đó cho thấy sự thâm độc, bỉ ổi, nghĩ ra “trăm phương, ngàn kế” để với mưu đồ bôi nhọ, nói xấu cách mạng và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đó là chiêu ài “Bình cũ, rượu mới” đã bị lật tẩy, hèn hạ và nham hiểm. Những hành động này hoàn toàn nằm trong ý đồ của các thế lực thù địch mà mỗi công dân Việt Nam đang được sống trong chế độ tốt đẹp “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” hiện nay cực lực lên án, vạch trần âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch mạo danh, giả danh chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


                                                                    
Các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội đang và sẽ ráo riết tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Gần đây, họ cho rằng, con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ chủ nghĩa tư bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập nhau. Thực hiện mưu đồ này, chúng ra sức bôi đen CNXH hiện thực, bác bỏ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, công khai ca ngợi chế độ tư bản chủ nghĩa và ra sức cổ súy, tô son, trát phấn cho chủ nghĩa tư bản, rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, chủ nghĩa tư bản có thể hội tụ với CNXH trong thời đại hậu công nghiệp, văn minh tin học. Họ lấy một số khuyết điểm, yếu kém của ta về quản lý kinh tế, quản lý xã hội để quy chụp cho bản chất của CNXH, xuyên tạc rằng, ở nước ta không có CNXH. Trong khi nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, họ lại đòi hỏi những nhân tố của CNXH phải xuất hiện đầy đủ ngay ở nước ta. Tiến công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng, phải phát triển chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết những vấn đề xã hội ở chừng mực nào đó theo CNXH dân chủ!
Những luận điệu nói trên của các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội không có mục đích nào khác là gây sự hoài nghi; phá vỡ sự đồng thuận xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta đối với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta đi vào con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố, giữ vững sự kiên định niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(1). Đây là một sự tổng kết lịch sử cách mạng Việt Nam, vạch rõ nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chỉ rõ mục tiêu, lý tưởng mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tiếp tục kiên định trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Gần một thế kỷ qua, đó là khoảng thời gian đủ để mỗi người Việt Nam kiểm nghiệm và rút ra kết luận về sự đúng đắn, sáng tạo của mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn. Nhìn lại lịch sử cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua cho thấy, độc lập dân tộc và CNXH đã được Đảng ta xác định là mục tiêu, là cái đích phải đến của cách mạng Việt Nam ngay từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng (1930). Từ đó cho đến nay, độc lập dân tộc và CNXH luôn luôn là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và CNXH trong từng thời kỳ cách mạng là nét độc đáo, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình của thế giới, khu vực và đất nước, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng; trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ đường lối, nhiệm vụ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH phù hợp với yêu cầu của lịch sử.
Đặc biệt, khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình thế giới, khu vực có những biến đổi to lớn và cực kỳ phức tạp. Độc lập dân tộc và CNXH đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Trước những biến cố của lịch sử trong những thập niên 90 của thế kỷ 20, công cuộc cải cách, cải tổ, đổi mới CNXH đã trở thành một đòi hỏi tất yếu nhằm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết, sai lầm trong quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; tìm ra con đường phát triển thích hợp của CNXH hiện thực đối với mỗi nước.
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta khẳng định, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà chính là để đạt mục tiêu đó một cách ó hiệu quả bằng những phương pháp, bước đi thích hợp, phù hợp với quy luật để nhanh chóng đưa đất nước thoát  khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khắc phục sự tụt hậu, chệch hướng, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã tổng kết, rút ra một trong những bài học quan trọng: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong thời kỳ mới, Đảng ta xác định độc lập dân tộc và CNXH tiếp tục là kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ của thời đại và tình hình đất nước. Kết hợp độc lập dân tộc và CNXH phải đặt trong xu thế phát triển của thời đại và quá trình vận động của các nhân tố dân tộc, giai cấp trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của xu thế toàn cầu hóa. Quan hệ giữa các quốc gia-dân tộc trên thế giới được hình thành và vận động trên cơ sở tác động tổng hợp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu. Sự kết hợp, đan xen và thống nhất giữa lợi ích dân tộc, giai cấp, quốc tế tạo ra động lực mới cho sự phát triển các quan hệ quốc tế trong thời đại ngày nay. Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Độc lập dân tộc và CNXH là hai mặt của một quá trình thống nhất biện chứng của sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đương nhiên, hành trình đi tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH thực hiện cùng với
những thời cơ, thuận lợi mới, chúng ta vẫn còn gặp phải những khó khăn, thách thức. mới. Lê-Nin đã từng căn dặn những người cộng sản, không bao giờ được chán nản hoặc rơi vào tuyệt vọng. Cần phải kiên định con đường đã chọn, biết củng cố, nuôi dưỡng niềm tin vào thắng lợi ngay cả trong những thời điểm, những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; không bi quan, dao động, mất niềm tin trước những khó khăn, thử thách. Phải nhạy cảm nắm bắt cái mới, giữ vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời, phải linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để thực hiện mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và CNXH, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.



CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH



Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Không ai có thể phủ nhận được sự chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Những thành quả về thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã góp phần làm thay đổi nhận thức, cách nhìn về bức tranh tổng thể khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế ngày nay. Đó là những lực cản lớn mà các thế lực thù địch gặp phải khi chống phá cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ, họ đã thấy được sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nên để chống phá Đảng, cách mạng Việt Nam thì phải phá vỡ sức mạnh này. Trong lịch sử của dân tộc, chúng ta đã chứng kiến thủ đoạn thâm độc trong chính sách “chia để trị” của kẻ thù xâm lược. Ngày nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng những thủ đoạn, chiêu bài khác nhau, nhằm phá hoại ta từ bên trong. Một trong những thủ đoạn đó là chúng thường kích động nhân dân, thổi phồng, khuếch đại các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội; lợi dụng những yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền rồi thổi phồng, từ cá biệt họ cho là toàn thể,... làm cho người dân từ nghi ngờ đến mất lòng tin vào Đảng, chế độ. Chúng còn xuyên tạc một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo để gây dư luận xấu trong nhân dân. Lợi dụng tình hình đời sống của số đông đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung để chúng kích động, lừa bịp thông qua các hoạt động “tôn giáo”, “dân tộc”, tà đạo, đạo lạ,... làm cho người dân mắc mưu dẫn đến suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trọng điểm của sự chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc là ở các địa bàn: Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, vùng có đông đồng bào theo đạo, v.v.
          Cụ thể, ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc, rằng “Tây Nguyên là của người Thượng”, “Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi”, v.v. Ở Tây Bắc, chúng dựng lên cái gọi là “Vương quốc Mông” để làm cái cớ chia rẽ đồng bào các dân tộc anh em. Chúng vận động đồng bào người Mông về “một miền đất hứa” mọi người sẽ được “ban sức khỏe, hạnh phúc, không làm cũng có ăn, sự giàu sang và phú quý”, “Những người Mông đến đây sẽ được chúa trời giáng trần cứu thế”,… qua đó, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, v.v. Ở Tây Nam Bộ, chúng tập trung tuyên truyền tư tưởng “ly khai tự trị”, đòi thành lập “Nhà nước Khơ-me Cam-pu-chia Krôm độc lập”; lợi dụng tranh chấp, khiếu kiện, những vấn đề do lịch sử để lại, vấn đề dân sinh, dân chủ để kích động, tập hợp lực lượng, móc nối lôi kéo, tạo dựng ngọn cờ, thực hiện ý đồ biểu tình, bạo loạn lật đổ. Đối tượng chúng quan tâm là trí thức, sư sãi, học sinh, sinh viên, cán bộ thoái hóa biến chất để tác động đến các đối tượng khác; vu cáo, xuyên tạc ta vi phạm dân chủ, nhân quyền.
Các công cụ, phương tiện tiến hành hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam rất đa dạng. Nhiều hội nhóm được lập ra cả ở trong và ngoài nước, như: Việt Tân, Đảng Dân chủ Việt Nam, Hội anh em dân chủ, Hội Cựu tù nhân lương tâm, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, Hội Phụ nữ nhân quyền, v.v. Dù tên gọi khác nhau, song vẫn kiểu “bình mới rượu cũ”, quanh quẩn vài ba kẻ giật dây, điều hành, cùng mục đích chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động chủ yếu được thực hiện qua các diễn đàn trên in-tơ-nét, website, blog,… để đăng tải các bài viết, hình ảnh, chế phim xuyên tạc với cường độ cao nhằm gây chia rẽ nội bộ, sự đồng thuận xã hội và tình cảm giữa các dân tộc. Một số diễn đàn, như: Boxit, Viettan, RFI, RFA, VOA,… thường đăng tải các bài viết xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Họ lợi dụng triệt để các phương tiện phát thanh, phát tán tài liệu phản động, các ấn phẩm đồi trụy, khai thác tối đa ưu thế của tuyên truyền miệng, rỉ tai, “nửa kín nửa hở” để tung tin thất thiệt, sai lệch về đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Từ luận điệu này, các thế lực thù địch tiếp tục khoét sâu tâm lý ly khai, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết lương giáo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết Đảng với Nhân dân, v.v.
Có thể thấy, âm mưu, thủ đoạn chống phá, của các thế lực thù địch là rất tinh vi, thâm độc; hành động quyết liệt, trắng trợn; đối tượng đa dạng, phức tạp; mục đích không thay đổi; hậu quả khó lường.
Để đấu tranh với mưu đồ đen tối đó, chúng ta cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, phù hợp, tính khả thi cao, song trước hết, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào theo đạo về đường lối, chính sách nói chung, đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước nói riêng. Đồng thời, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh, nhận diện, vạch mặt những kẻ có mưu đồ đen tối nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, đề cao truyền thống đoàn kết, yêu nước, tinh thần cảnh giác, trách nhiệm công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, sự đồng thuận xã hội, ý thức, trách nhiệm cộng đồng, tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống mọi biểu hiện tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, ly khai,… coi đó là yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, không ngừng xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; kết hợp hài hòa ba lợi ích: cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết khó khăn, vướng mắc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đất đai, môi trường, v.v.
Ba là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi. Theo đó, rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới, định canh, định cư, tạo việc làm cho lao động tại chỗ là người dân tộc thiểu số; hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, v.v. Qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa những người theo tín ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các phong trào, cuộc vận động, biểu dương kịp thời những tấm gương điển hình tiên tiến, “gương người tốt, việc tốt”; động viên và phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Bên cạnh đó xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị - xã hội. Kiên trì thuyết phục, vận động những người nhẹ dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn, hối cải. Thực hiện tốt công tác quản lý xã hội, nắm chắc tình hình, phối hợp với các lực lượng, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, gần gũi, sát dân, nắm tâm tư, nguyện vọng của đồng bào và những vấn đề xảy ra trên địa bàn để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng. Kịp thời phát hiện, giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, không để kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá. Những việc làm thiết thực đó, sẽ góp phần quan trọng đảm bảo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo. Đây sẽ là “liều thuốc đặc trị” để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.