Một số năm gần đây, vào những ngày lễ lớn của đất nước, trên in-tơ-nét lại xuất hiện một số ý kiến xuyên tạc và phủ nhận lịch sử.
Gần đây nhất, trước dịp kỷ niệm 72 năm thắng lợi Cách mạng Tháng 8 (1945 - 2017)
trên BBC, đã có người cho rằng Cách mạng Tháng Tám là "việc không nên
làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng
Kim" (?).
Thực ra ý kiến coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là "việc không nên
làm" vì "khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng
Kim" của ông tiến sĩ nọ cũng không có gì mới. Trước đó đã có một vài giọng
điệu lạc lõng khác cho rằng "ngày độc lập của Việt Nam là 11/3/1945"
(đây là ngày vua bù nhìn Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc
lập" sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tuyên bố "trao lại
độc lập cho Việt Nam")! Nói cách khác thì ý kiến của ông tiến sĩ chỉ là
nối dài việc "đánh lận con đen" để tảng lờ thực chất việc phát-xít
Nhật giành quyền kiểm soát Đông Dương chỉ là cố gắng tuyệt vọng khi thất bại là
không tránh khỏi, thêm nữa cũng để chặn trước nguy cơ bị quân đội Pháp ở Đông
Dương tiến công. Tư liệu lịch sử cho thấy các sự kiện (như: hành động quân sự,
lựa chọn nhân vật chính trị, thành lập chính quyền bù nhìn...) diễn ra theo
kịch bản đã được tình báo của hải quân Nhật ở Đông Dương chuẩn bị kỹ lưỡng.
Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9/3/1945, vấn đề quan trọng
nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm
tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật và để phòng thủ.
Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật muốn kế thừa từ Pháp
đã tan rã, vì thế việc lập một bộ máy cai trị tay sai bản xứ đặt ra như một đòi
hỏi cấp bách. "Chính phủ" Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh đó.
Đánh giá về sự kiện này, trong bài báo nhan đề Trần Trọng Kim, chính khách
bất đắc dĩ? đã đăng trên tiasang.com.vn ngày 18/2/2014, sau khi khái quát các
sự kiện liên quan, tác giả Trần Văn Chánh viết: "có thể thấy ngày càng rõ
hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do
người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào
"tròng"..."! Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một
toán quân Nhật áp giải về kinh thành. Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama
(Ma-xa-y-u-ki Y-ô-kô-y-a-ma) đề nghị ông ra tuyên bố độc lập và sớm thành lập
chính phủ để hợp tác với Nhật. Ngày 11-3, Bảo Đại ban bố một đạo dụ cam kết
"... hợp tác toàn tâm toàn ý với đế quốc Nhật Bản". Bảo Đại hai lần
gửi điện tín vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế lập nội các, nhưng rồi người
được Nhật chọn vào vai trò này là Trần Trọng Kim. Ngày 30/3/1945, Trần Trọng
Kim đang ở Băng-cốc được Nhật đưa về Sài Gòn, sau đó ra Huế thành lập
"chính phủ" vào ngày 17/4 với bản tuyên cáo bày tỏ sự tri ân:
"... không thể quên ơn nước Đại Nhật Bản đã giải phóng cho ta" và tin
tưởng: "trên nhờ lòng tin cậy của đức Kim Thượng (Bảo Đại), dưới nhờ sự
ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản"
để "mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn
đời trường cửu" .
Không biết khi viết tuyên cáo, ông Trần Trọng Kim có thành thực tin như vậy
không, nhưng trong hồi ký Một cơn gió bụi, ông viết: "Nhật Bản trước vốn
là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những
phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính
Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã
bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng
nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp"
nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đằng làm
một nẻo". Tồn tại trong thời gian ngắn từ ngày 17/4/1945 đến ngày 23/8/1945,
"chính phủ" Trần Trọng Kim tập hợp được một số trí thức có uy tín
thời đó với nhiệt thành, thực tâm yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Trịnh
Đình Thảo... và cũng cố gắng làm một số công việc hữu ích như: thống nhất về
danh nghĩa phần đất Nam kỳ vào lãnh thổ Việt Nam; quy định chữ quốc ngữ và
tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở công sở, trường học; triển khai chương
trình giáo dục bằng tiếng Việt; thành lập lực lượng "thanh niên tiền
tuyến" (bộ phận thanh niên yêu nước trong tổ chức này sau được "Việt
Minh hóa" đã hoạt động tích cực trong khi giành chính quyền ở Huế và trong
kháng chiến sau này)... Dù vậy, "chính phủ" Trần Trọng Kim thực chất
vẫn được Nhật Bản bảo hộ.
Không phải ngẫu nhiên ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội
các với Bảo Đại lại có sự hiện diện "tình cờ" và phê duyệt của viên
cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Cũng nên chú ý tới một sự
kiện là ngày 5/8/1945, "chính phủ" Trần Trọng Kim đã trình Bảo Đại
một văn bản xin từ chức, được Bảo Đại chấp nhận nhưng lại yêu cầu ở lại tạm
thời làm việc, chờ tìm người lập nội các mới.
Tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức
được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách
tiến bộ, ích quốc lợi dân, nhưng "chính phủ" Trần Trọng Kim lại không
quy tụ, phát huy được ý chí, sức mạnh của dân tộc. Bởi đây thực chất chỉ là một
tổ chức bù nhìn, bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công
việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc để cứu đói mà
"chính phủ" này cũng không thực hiện nổi. Nhưng với khẩu hiệu
"Phá kho thóc Nhật" của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng, quy tụ sức
mạnh đấu tranh của đông đảo quần chúng.
Đeo bám vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua bù nhìn, công
khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào thế lực xâm lược ngoại bang,
gây chiến tranh phi nghĩa và đang trên đường bị tiêu diệt, "chính
phủ" Trần Trọng Kim không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân
tộc Việt Nam; do đó việc "được Nhật trao độc lập" không phản ánh tính
chính danh chính trị của "chính phủ" này, chính vì thế nó đã tự đặt
mình vào thế đối lập với xu thế thời đại. Dù tập hợp được một số trí thức có uy
tín và muốn giương lên ngọn cờ yêu nước nhưng "chính phủ" Trần Trọng
Kim, với hình hài và tinh thần thân Nhật, với sự ra đời và chịu sự bảo trợ, chi
phối của Nhật,... chỉ là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng, cai trị
của phát-xít Nhật trước thất bại không tránh khỏi, nên việc "chính
phủ" đó sớm cáo chung là điều tất yếu.
Ngược lại với sự hình thành, bất lực rồi nhanh chóng tan rã của "chính
phủ" Trần Trọng Kim, Mặt trận Việt Minh thành lập theo sáng kiến của Hồ
Chí Minh (tháng 5/1941, khi Nhật Bản còn chưa tham chiến) đã nhanh chóng phát
huy được vai trò của mình, nhanh chóng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội. Với
quyết tâm "làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt
Nam được sung sướng tự do", Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được tổ chức
trong những Hội Cứu quốc là thành viên của Việt Minh, như: Nông dân cứu quốc;
Công nhân cứu quốc; Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn
hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển trên khắp các địa bàn
từ nông thôn, thành thị, tới miền núi, từ bắc vào nam đã hình thành nên phong
trào Việt Minh sôi nổi, đưa tới các chuyển biến mạnh mẽ, tạo nên thế và lực của
phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếp cận từ nhãn quan chính trị
khác nhau cho nên còn có khác biệt trong đánh giá nguyên nhân, bản chất của
Cách mạng Tháng Tám, nhưng trong nghiên cứu của phần lớn sử gia phương Tây đều
thừa nhận vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần dân tộc phù hợp với
xu thế thời đại, cũng như tầm tư tưởng vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thí dụ trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời (Ho Chi Minh - a life),
tác giả Wiliam Duiker (Uy-li-am Điu-cơ) bình luận về vai trò Hồ Chí Minh trong
cách mạng: "... những đánh giá như vậy (xu hướng hạ thấp ý nghĩa của cuộc
Cách mạng Tháng Tám 1945 - TP) không thể che giấu sự thật rằng cuộc Cách mạng
Tháng Tám là một thành tựu phi thường... trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc
chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân
Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể
đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi".
Sự thật lịch sử đã rõ như ban ngày. Chính sức mạnh của khối đoàn kết dân
tộc, ý chí của toàn dân khi được phát huy đến cao độ dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành
động lực làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và cơ sở cho những thắng lợi
của cách mạng nước ta trong những giai đoạn tiếp theo./.
Mọi âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động và các thế lực thù địch nhất định sẽ bị lột trần và thất bại
Trả lờiXóa