Trái ngược
với các luận điệu chống phá của các thế lực phản động, những năm qua ở Việt
Nam, tự do báo chí và tự do ngôn luận lại có những bước tiến không thể phủ
nhận...
Theo số liệu của cơ quan chức năng, đến tháng 8/2017, cả nước Việt Nam có trên
910 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn phẩm; hơn 20.000 nhà báo được cấp thẻ; một
hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền hình, 78 kênh
phát thanh; hàng trăm trang mạng xã hội… Hiện, Ðài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng
99,5% diện tích lãnh thổ, qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới. Hiện hơn
90% hộ gia đình Việt Nam đã sử dụng sóng truyền hình của Ðài Truyền hình Việt
Nam. Qua nhiều hình thức cung cấp, người dân Việt Nam được tiếp xúc với 75 kênh
truyền hình nước ngoài, trong đó có các kênh nổi tiếng như CNN, BBC, TV5, NHK,
DW, Australia Network, KBS, Bloomberg,... 20 cơ quan báo chí nước ngoài đã có
phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng
nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, người dân Việt Nam có thể
tiếp cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới
như AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times,...
Về xuất bản, ở Việt Nam có 64 nhà xuất bản. Chỉ tính riêng trong năm 2016,
ngành này đã xuất bản hàng chục ngàn xuất bản phẩm có nội dung phong phú và đa
dạng, với khoảng gần 400 triệu bản. Từ việc xác định vai trò của internet, Nhà
nước Việt Nam có chính sách, biện pháp cụ thể để khuyến khích sử dụng internet
phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng
cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm các quyền cơ bản của nhân dân. Ðó là cơ sở để
năm 2016, về số lượng người sử dụng internet, Tổ chức Liên minh viễn thông quốc
tế (ITU) xếp Việt Nam đứng thứ ba tại Ðông - Nam Á, thứ 8 tại châu Á. Riêng với
blog, trên cả nước hiện có hàng triệu người có blog cá nhân. Ða số blogger sử
dụng blog làm nơi bày tỏ suy nghĩ, trao đổi tâm tình, kiến thức; thông qua blog
đã hình thành nhiều nhóm sinh viên, thanh niên rất tích cực hoạt động xã hội
như quyên góp giúp đỡ trẻ em nghèo, giúp người không nơi nương tựa,... Hầu như
các cơ sở công cộng ở đô thị như nhà hàng, khách sạn, quán giải khát, nhà chờ sân
bay,... đều có Wifi miễn phí. Tại các địa phương có ngành du lịch phát triển
như Huế, Ðà Nẵng, Hội An,... kế hoạch phủ sóng Wifi đã và đang được triển khai
là bằng chứng cho thấy sự quan tâm của chính quyền địa phương với sự phát triển
internet.
Thực tế Việt Nam cho thấy, sự phát triển của hệ thống truyền thông không
chỉ để giúp nhân dân thỏa mãn nhu cầu văn hóa, mở mang và trau dồi tri thức, mà
trở thành diễn đàn với nhiều hình thức phong phú, sinh động để các tổ chức xã
hội, mọi người dân có tiếng nói lành mạnh, đóng góp ý kiến, thậm chí phản biện,
đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước, và của các cấp chính quyền.
Trong nhiều trường hợp, hệ thống truyền thông thật sự là công cụ bảo vệ lợi ích
xã hội, bảo vệ quyền của người dân, nhất là kiểm tra, giám sát thực thi các
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều cơ quan báo chí ở Việt Nam chủ động,
tích cực phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, phê phán hành vi vi phạm
quyền công dân cùng những biểu hiện tiêu cực khác. Gần đây, việc những cuộc tranh
luận, chất vấn, phản biện tại Quốc hội được truyền hình trực tiếp, việc Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố công khai để toàn dân đóng góp ý kiến,
việc các cuộc tọa đàm, tranh luận, cung cấp thông tin nhiều chiều về các vấn đề
chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước trên phương tiện thông tin đại
chúng,... giúp người dân tiếp cận với các vấn đề quan trọng, từ đó đưa ra ý
kiến có trách nhiệm. Vì thế hệ thống truyền thông ở Việt Nam đã trở thành một
phương tiện quan trọng trong bảo vệ và phát huy các giá trị của nhân quyền.
Ðể bảo đảm cho hệ thống truyền thông theo kịp sự phát triển, bên cạnh các
quy định cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm
hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan thông tin đại
chúng làm tròn chức năng, nhiệm vụ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt
Nam ngày càng được phát huy cao hơn. Biểu hiện cụ thể cho quan tâm này là Việt
Nam đã có Luật Báo chí và tháng 11/2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông
qua Luật Xuất bản sửa đổi, thể hiện sự nhất quán trong tôn trọng quyền phổ biến
tác phẩm của cá nhân, phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
Trên thế giới ngày nay, tự do ngôn luận và tự do báo chí là các yếu tố hết
sức quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là
biểu hiện trực tiếp của quan niệm, chính sách nhân quyền ở quốc gia đó. Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của
Liên hợp quốc đều khẳng định các quyền cơ bản này, và Nhà nước Việt Nam đã luôn
nghiêm túc tuân thủ các cam kết. Tuy nhiên, bất chấp các thành tựu nhân quyền
của Việt Nam, các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí
thường viện dẫn từ Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị để bịa đặt Việt Nam "không có tự do ngôn luận, tự do
báo chí", vu cáo Nhà nước Việt Nam "vi phạm tự do ngôn luận, tự do
báo chí". Khi viện dẫn, họ đã cố tình tảng lờ việc Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền khẳng định: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và các quyền khác:
"phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo
đảm việc thừa nhận, tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người
khác, đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc
lợi chung trong một xã hội dân chủ". Họ cũng đã tảng lờ việc trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, để bảo đảm "Tất cả các dân
tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định
thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn
hóa", về tự do ngôn luận, Công ước cho rằng thực hiện quyền này "kèm
theo những nghĩa vụ, trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế
nhất định". Wikipedia - nơi có thể tự do trình bày quan điểm, trong mục từ
Tự do ngôn luận cũng viết: "Các hạn chế đối với tự do ngôn luận có thể
theo "nguyên tắc gây hại" hoặc "nguyên tắc xúc phạm", thí
dụ trong trường hợp khiêu dâm hoặc các nội dung thù ghét (nhằm hạ thấp một cá
nhân hay nhóm người vì chủng tộc, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, định
hướng tình dục, tật nguyền, khả năng ngôn ngữ, hệ tư tưởng, địa vị xã hội, nghề
nghiệp, ngoại hình, khả năng tư duy hay bất cứ dị biệt nào...). Các hạn chế đối
với tự do ngôn luận có thể được thực thi bằng luật pháp hoặc/và sự lên án của
xã hội".
Trên thực tế, không chỉ ở Việt Nam mới có một số chế tài đối với hành vi
lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để vi phạm pháp luật, mà ở Hoa Kỳ, CHLB
Ðức, Pháp, Hàn Quốc, Singapore,... đều có luật và điều khoản luật xử lý nghiêm
khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những kẻ thường ca ngợi
tự do báo chí của cái gọi là "Việt Nam cộng hòa" cần phải biết rằng,
Ðiều 16 Hiến pháp 1956 của chế độ này viết: "Mọi người dân có quyền tự do
ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo
lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể cộng hòa", Ðiều 12
Hiến pháp 1967 của chế độ này cũng viết: "Quốc gia tôn trọng quyền tự do
tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền
này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ
tục". Và không thể biện minh cho tự do ngôn luận, tự do báo chí của chế độ
đó khi chỉ trong một tháng đầu năm 1975 đã "bỏ tù 19 nhà báo và đóng cửa
năm báo đối lập"…
Hiện nay, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí ở Việt Nam
còn gặp khó khăn khi nhận thức về pháp luật của toàn dân chưa trở thành ý thức
thường trực, tự giác, hệ thống truyền thông tuy phát triển song còn thiếu
chuyên nghiệp, nhất là các thế lực thù địch, một số cá nhân thiếu thiện chí lợi
dụng truyền thông để tác động xấu tới xã hội, công chúng, lợi dụng việc chính
quyền thực thi pháp luật để vu cáo Nhà nước Việt Nam,... Nhưng chúng ta tin
tưởng rằng, từ quan điểm, chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam về tự do
ngôn luận và tự do báo chí, cả trước mắt và lâu dài, mọi người dân Việt Nam sẽ
được hưởng các quyền này ngày càng đầy đủ hơn, được tạo các điều kiện để phát
triển toàn diện và hài hòa, từ đó có những đóng góp thiết thực vào sự phát
triển chung của xã./.
Bài viết rất đúng thực tế
Trả lờiXóa