Qua 86 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay. Đảng ta luôn luôn có quan điểm và chính sách đúng đắn về vấn
đề tôn giáo. Trước yêu cầu mới của tình hình và nhiệm vụ cách mạng, để
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân
tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đại
hộiVIII của Đảng tiếp tục khẳng định chính sách tôn giáo từ trước đến nay và
chỉ rõ: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa,
kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo trái quy định của pháp luật.. Chính sách tôn giáo đúng đắn và sáng
tỏ đó có tác dụng cổ vũ động viên to lớn, khiến đồng bào theo đạo và các chức
sắc tôn giáo vuivẻ, phấn khởihoà hợp cùng cả cộng đồng dân tộc, sống “tốt đời
đẹp đạo”, làm tròn nghĩa vụ trách nhịêm công dân đốivớiTổ quốc Việt Nam xã
hộichủ nghĩa.
Ở nước ta, đồng bào có đạo là
nhân dân lao động, có lòng yêu nước, đã góp phần cùng toàn dân phấn đấu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo đã làm tốt việc đạo, việc đời,
hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng các chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều tăng
ni, phật tử, tín đồ đã lập được thành tích to lớn trong các cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay. Những đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đồng bào có
đạo được Đảng và Nhà nước cao, thể hiện niềm tin và sự trân trọng sâu sắc. Điều
đó chứng tỏ chính sách tôn giáo của Đảng được đồng bào có đạo tán thành, ủng hộ
va ra sức thực hiện. Bởi vì Đảng ta luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Do vậy, nếu aiđó cho rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm hay viphạm quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân, thì đó thực sự là một sự xuyên tạc và vu cáo trắng trợn. Trong Nghị
quyết 24 của Bộ Chính trị và Cương lĩnh xây dựng đất nước thông qua Đại hội VII,
Đảng ta đã khẳng định một cách hoàn toàn rõ ràng: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nâhn dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp
với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời cũng có
những tình cảm rất ưu ái đối với đồng bào có đạo. Với nhân quan chính trị đúng
đắn và niềm tin yêu sâu sắc, Người khẳng định đồng bào có đạo “là những người
chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giê-su”,
bởi theo Người thì: “Đức Giê-su hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc,
đồng bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh,
phấn đấu”. Chính vì vậy, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta từ trước
đến nay và cả sau này là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện đoàn kết lương – giáo, đoàn kết toàn dân. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng đất
nước hơn bao giờ hết đòi hỏi phải mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, đoàn kết với mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, kể cả
trong nước và nước ngoài, cả theo đạo và không theo đạo. Đó là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, bởi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, không phát huy được
vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước thì không thể đưa cách mạng đến thành công. Thực hiện đạiđoàn kết
dân tộc, phát huy vaitrò làm chủ của nhân dân đối với đồng bào theo đạo trong
cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc quyết liệt và phức tạp hiện nay là phải tạo
điều kiện thuận lợi cho đồng bào thực hiện phần đạo chu tất, phần đời tốt đẹp,
tích cực tham gia xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu là những
tín đồ chân chính đồng thời cũng là những công dân chân chính. Có như vậy mới
đập tan được âm mưu giành giật trái tim, khối óc quần chúng trong chiến lược
“diễn biến hoà bình” thâm độc của kẻ thù đối với sự nghiệp của cách mạng
của nhân dân.
Cần thấy rằng,
trong chiến lược chống phá cách mạng nước ta hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc và tôn giáo. Chúng coi đó
là những trọng điểm chống phá để làm lung lay khối đại đoàn kết toàn dân của
ta, tạo ra những khoảng trống tinh thần – tâm lý, khoét sâu định kiến, mặc cảm,
xoá bỏ bầu không khí cởi mở và tin cậy trong nhân dân ta, từ đó gây mầm bạo
loạn, lật đổ chế độ ta.
Thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, mặc
dù tôn giáo thường bị kẻ thù lợi dụng để thực hiện những mưu đồ chính trị của
chúng, nhưng đồng bào có đạo luôn cảnh giác đấu tranh chống lại sự lợi dụng đó
và thường xuyên thực hiện tốt khẩu hiệu “Kính Chúa yêu nước”. Hiện nay, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều âm mưu thủ đoạn thâm
độc và xảo quyệt trong chiến lược “diễn biến hoà bình” để kích động giáo dân
chống phá ta, hy vọng biến “Việt Nam thành Ba Lan thứ hai” hay một “Ba Lan châu
Á”. Nhưng do có lòng yêu nước và giác ngộ cao, giáo dân cả nước cùng toàn Đảng,
toàn dân ta đã và đang tỉnh táo đấu tranh vạch trần mưu đồ đen tối này. Tuy
nhiên, cũng còn có người chưa nhận rõ âm mưu thủ đoạn của địch, có người bị
địch lợi dụng, thậm chí có kẻ can tâm làm tay sai cho đế quốc, mượn tên Chúa
lừa bịp nhân dân. Đó là vấn đề không thể xem thường, đòi hỏi mọi người phải
thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác để không sa vào âm mưu, cạm bẫy của
địch. Do vậy, để có thể vô hiệu hoá âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo của kẻ thù
trong chiến lược “diễn biến hào bình” chống phá cách mạng nước ta hiện nay,
trước hết cần làm cho mọ ingười nhất là giáo dân hiểu rõ mưu đồ đen tối, xảo
quyệt và những chủ trương biện pháp cụ thể của chúng. Đó là:
Thứ nhất, các thế lực đế quốc
và bọn phản động đội lốt các tôn giáo đã có sự điều chỉnh về chủ trương, biện
pháp hoạt động. Nếu trước đây chủ trương của chúng mới chỉ là “thích nghi để
tồn tại”, thì hiện nay chúng xác định là “thích nghi có chiều sâu” nhằm đẩy
nhanh quá trình thực hiện “tôn giáo hoá đời sống xã hội” tiến tới lật đổ chế độ
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai,
chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng ta về vấn đề
tôn giáo, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, hết sức lợi dụng những phần tử xấu trong
các tôn giáo, coi đó là lực lượng xung kích để liên kết chặt chẽ giữa bọn phản
động trong các tôn giáo với bọn phản động trong các dân tộc, tạo thời cơ cho
bạo loạn lật đổ.
Thứ ba, lợi dụng chính sách mở cửa và sự mở
rộng dân chủ ở nước ta, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động trong
các tôn giáo,truyền đạo trái phép, phát triển và mở rộng lực lượng, hòng tạo
lợi thế cho các tổ chức tôn giáo nắm quyền chi phối về chính trị. Biểu hiện cụ thể
là:
- Phát triển, mở rộng lực lượng chống đối trong
các tôn giáo hướng vào các trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, xã hội như
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và những nơi đông dân cư, vùng sâu
vùng xa, đồng bào dân tộc ít người (Tây Nguyên, Tây Bắc,…), khu căn cứ cách
mạng trước đây của ta để hình thành các gọng kìm chiến lược hỗ trợ cho sự phản
loạn.
- Đối tượng chủ yếu để phát triển đạo là hướng vào
mua chuộc và lôi kéo thế hệ trẻ như thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên
các trường đại học,…
- Tăng
cường truyền đạo, phát triển tổ chức cả hợp pháp và bất hợp pháp, đáng lưu ý là
xuất hiện hiện tượng dùng vật chất, tiền bạc để lôi kéo, mua chuộc đồng thời
tiến hành điều chỉnh hoặc thay đổi các lễ nghi tôn giáo cho phù hợp với đặc
điểm Việt Nam và từng vùng dân cư để lôi kéo người theo đạo.
Thứ tư, thực hiện chính sách liên kết tôn giáo
(chúng gọi tắt là chính sách liên tôn) để tập hợp lực lượng, khắc phục sự chia
rẽ và mâu thuẫn vốn tiềm ẩn trong các tôn giáo trước đây.
Thứ năm, phối hợp hoạt động giữa các tổ chức tôn
giáo trong nước với các tổ chức tôn giáo quốc tế, giữa các phần tử phản động
trong các tôn giáo ở trong nước với bọn phản động tôn giáo bên ngoài. Gần đây,
số tiền viện trợ dành cho các tôn giáo ở Việt Nam dưới các hình thức vừa trực
tiếp, vừa gián tiếp, vừa bí mật vừa công khai lên tới hàng trăm triệu đô la.
Đó là những biểu hiện mới trong âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù hòng lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Quán
triệt sâu sắc chính sách tôn giáo của Đảng, để vô hiệu hoá các âm mưu, thủ đoạn
nói trên, theo chúng tôi, cần thực hiện tốt mấy biện pháp cơ bản sau đây:
Một là, phải thường xuyên coi trọng giáo dục và
phát huy lòng yêu nước và sự giác ngộ cao của giáo dân trong cả nước, đi đôi
với tuyên truyền sâu rộng chính sách tôn giáo của Đảng, đồng thời nhạy bén, kịp
thời vạch trần âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo của kẻ thù để đồng bào có đạo và
toàn bộ nhân dân ta nắm vững và có ý thức cảnh giác thường trực.
Nhân dân ta nói chung và đồng
bào có đạo nói riêng vốn đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, rất quý trọng
độc lập tự do. Mỗi khi dân tộc bị xâm lăng, thì cộng đồng dân tộc Việt Nam
không phân biệt tôn giáo, dân tộc đều nhất tề đứng lên đánh đuổi kẻ thù. Do
vậy, việc tuyên truyền chính sách tôn giáo của Đảng, vạch trần âm mưu, thủ đoạn
lợi dụng tôn giáo của kẻ thù phải được coi là một biện pháp quan trọng hàng đầu
để phát huy truyền thống yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc trong toàn dân
nói chung cũng như đồng bào có đạo nói riêng.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục quy phạm pháp
luật của Nhà nước ta về vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo… không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc lợi dụng tự
do tín ngưỡng tôn giáo để làm tráipháp luật và chính sách của Nhà nước”. Đây
chính là cơ sở pháp lý, quy phạm pháp luật để mỗi công dân hiểu rõ quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của mình một cách đúng đắn, đồng thời là cơ sở để nâng cao
trách nhiệm công dân đấu tranh với những hiện tượng vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng của công dân như: truyền đạo bất hợp pháp, không xin phép chính quyền
tự ý tuỳ tiện tổ chức lực lượng “bảo vệ đạo”, lợi dụng vấn đề đất đai,
nhà thờ, chùa chiền,… để đối lập, chia rẽ chính quyền với nhân dân có đạo,
v.v..
Ba là, nâng cao năng lực thực tiến lãnh đạo, quản
lý vấn đề chính trị nói chung và vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo nói riêng cho
đội ngũ cán bộ cơ sở ở địa phương, nhất là ở các vùng có đạo. Thực tiễn cho
thấy, cán bộ chính quyền ở địa phương nào có năng lực lãnh đạo, quản lý tốt vấn
đề chính trị (ở vùng có đạo bao gồm cả vấn đề tôn giáo), thì ở đó mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ được tổ chức thực hiện tốt, đời sống
mọi mặt và an ninh chính trị – xã hội ổn định.
Bốn là, kiên quyết trừng trị bọn phản động đội lốt
tôn giáo và lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động chống phá ta.
Các biện pháp trên đây nếu được thực hiện tốt và
kết hợp chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ biện chứng, chắc chắn sẽ góp phần
thiết thực vô hiệu hoá âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống phá cách
mạng nước ta của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Nó vừa bảo vệ được
lợi ích của cách mạng, vừa bảo vệ được quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, bảo
đảm xây dựng các tổ chức tôn giáo thực sự đóng vai trò phục vụ cho yêu cầu tín
ngưỡng của nhân dân.