Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

KHÔNG CÓ CHUYỆN ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG



Trong những ngày gần đây, lợi sự kiện cá chết hàng loạt ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng ven biển thuộc một số tỉnh miền Trung, một số tổ chức, cá nhân phản động, chống phá sự nghiệp cách mạng ở Việt nam đã hồ đồ quy kết Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, không không quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường trên các phương tiện truyền thông, nhằm lôi kéo, kích động nhân dân biểu tình, gây rối. Những quy kết đó là hoàn toàn bịa đặt, xuất phát từ tâm địa đen tối của những kẻ đang cố tình nhắm mắt trước hiện thực Việt Nam.
Trước hết, xin thưa rằng, bảo vệ môi trường (BVMT) tự nhiên hiện nay đã và đang là vấn đề bức xúc, mang tính toàn cầu, do ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi khí hậu và những tác động tiêu cực từ chính con người. Là một quốc gia độc lập có chủ quyền, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn thể hiện là thành viên tích cực, có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến BVMT. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi BVMT là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó được thể hiện tập trung, rõ nét trong các văn kiện đại hội gần đây của Đảng công sản Việt nam. Mục tiêu tổng quát trong chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định: Kiểm soát, hạn chế về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; tiếp tục cải thiện chất lượng môi trường sống; nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Thể chế hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống Hiến pháp, pháp luật Việt Nam luôn có sự bổ sung, điều chỉnh, phát triển trong việc chế định những vấn đề cụ thể về BVMT. Tại Điều 36, Hiến pháp năm 1980, quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang, nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống”. Điều 29 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường”. Điều đó cho thấy Hiến pháp đã điều chỉnh, xác định ngày càng rõ hơn các chủ thể có tránh nhiệm là mọi cá nhân, tổ chức, và toàn xã hội, cũng như tính chất pháp lý được quy định ngày càng cao hơn, chặt chẽ hơn đối với nhiệm vụ BVMT.
Sự phát triển tính chất pháp lý trong Hiến pháp thể hiện từ việc quy định mọi cá nhân, tổ chức “có nghĩa vụ” (Hiến pháp năm 1980) lên “phải thực hiện” các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, BVMT và “nghiêm cấm mọi hành động” làm suy kiệt tài nguyên, hủy hoại môi trường (Hiến pháp năm 1992). Phạm vi điều chỉnh trong những chế định về BVMT cũng phát triển một cách vừa bao quát, vừa cụ thể hơn từ việc bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống” (Hiến pháp năm 1980) thành “sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, BVMT” “nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên, hủy hoại môi trường” (Hiến pháp năm 1992). Đó là sự phát triển ngày càng hoàn thiện của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt nam về quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, BVMT sinh thái, vì lợi ích quốc gia dân tộc và cuộc sống của nhân dân.
Kế thừa, phát triển các bản Hiến pháp trước đó, Hiến năm 2013 đã xác định những điều luật chi tiết, cụ thể hơn cả về nội dung, phạm vi điều chỉnh cũng như đối tượng áp dụng đối với nhiệm vụ BVMT. Hiến pháp năm 2013 đã đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại như vấn đề phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng,…; vấn đề BVMT đã được chú trọng, đặt ngang hàng với các lĩnh vực khác và đã được ghi nhận là nhiệm vụ ưu tiên, trước cả công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Điều 50). Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ môi trường (Khoản 1, Khoản 2 Điều 63) và nguyên tắc về người gây thiệt hại môi trường phải khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cũng được chế định (Khoản 3, Điều 63).
Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền con người đối với môi trường tại Điều 43: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Đây là điều luật thể hiện sự phát triển vượt bậc của tư duy lập hiến Việt Nam trong việc chế định những vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về vấn đề cụ thể, mang tính cấp thiết, đó là môi trường và BVMT. Đồng thời cũng thể hiện được tính nhân văn cao cả của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa thông qua việc xác định “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành”. Đây là sự thể hiện của ý Đảng, lòng dân với quyết tâm và nỗ lực BVMT.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về trách nhiệm BVMT, cũng như việc chế tài đối với mọi tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định của Hiến pháp, pháp luật về BVMT, Luật Bảo vệ môi trường nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2014 đã có những điều chỉnh cụ thể. Tại Khoản 1, và Khoản 8, Điều 4 quy định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân” và “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”. Về trách nhiệm, nghĩa vụ cụ thể của tổ chức, cá nhân trên từng lĩnh vực đối với nhiệm vụ BVMT tiếp tục được những điều luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định chi tiết để thực hiện.
Cũng trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, kế thừa và phát triển Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 2005), tại Khoản 2, Điều 4, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: “Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành”. Vì vậy, có thể khẳng định, những quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 là một bước cụ thể hóa của Hiến pháp, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước cũng như nguyện vọng của nhân dân Việt Nam để bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người. Sự phát triển trong lập hiến, lập pháp về BVMT nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước đã và đang đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu khách quan của tình hình mới.
Điều đó cho thấy những quyết tâm và hành động mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong công tác BVMT đã và đang được thể hiện sinh động trong cuộc sống. Vậy mà từ một số sự kiện cá chết vừa qua, một số phần tử phản động, những tên lưu manh chính trị và cả một số người vốn lương thiện nhưng có tâm lý "a dua" đã cố tình rêu rao, vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, mà “thả nổi” vấn đề BVMT trên một số phương tiện truyền thông. Mục đích của họ không có gì khác việc gây tâm lý hoang mang và bức trong xúc dư luận xã hội để hạ bệ uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước nhân dân. Những chiêu trò bẩn thỉu đó chẳng khác gì dùng vải thưa che mắt thánh. Vì đại bộ phận nhân dân Việt Nam luôn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, ai là mới người thực sự mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho họ; đâu là những kẻ bất chấp lương tri và công lý đang cố tình tuôn ra những giai thoại lạc điệu, nhảm nhí và đầy độc tố, nhằm phục vụ cho mục đích chính trị hèn hạ của họ./.



Ở VIỆT NAM NHÂN DÂN LÀ CHỦ THỂ TỐI CAO CỦA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC




Trong những ngày gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện dầy đặc những hình ảnh đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam hồ hởi chào đón Tổng thống Mỹ Barack Obama nhân chuyến thăm Việt Nam của ông từ ngày 23 đến 25/5/2016. Bên cạnh những hình ảnh đó là vô số những lời bình luận theo nhiều chiều cạnh khác nhau của các tầng lớp xã hội. Đáng chú ý là một số phần tử phản động đã hồ đồ cho rằng, một dân tộc khát vọng dân chủ đón tổng thống của một nước dân chủ. Như vậy lòng dân đã rõ với ngụ ý đen tối nhằm kích động quần chúng nhân dân biểu tình chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam
Trước hết cần phải khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nguyên tắc tối thượng đã được ghi nhận xuyên suốt trong các bản Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ trước đến nay. Tại Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. 
Về phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tại Điều 6, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Dân chủ đại diện là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cơ bản và phổ biến nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua các cơ quan đại biểu do mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; rồi đến lượt mình Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, hiểu một cách đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các cơ quan dân cử như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, mà còn bao gồm cả các cơ quan trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của nhân dân.
Biểu hiện rõ nét của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 69, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã nhấn mạnh vai trò của nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác cho Quốc hội. Tính chất đại diện thể hiện ở sự hình thành của Quốc hội - cơ quan duy nhất ở nước ta bao gồm những người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tính chất đại diện cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở chỗ Quốc hội bao gồm những đại biểu đại diện cho các thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các nhóm xã hội khác; đồng thời là đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân trong cả nước. 
Dân chủ trực tiếp là phương thức người dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình mà không phải thông qua cá nhân hay tổ chức đại diện. Các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân bao gồm: tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đối thoại trực tiếp giữa nhân dân với đại diện cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân...
Về hình thức trưng cầu ý dân đã được quy định cụ thể tại Khoản 1, Điều 3, Luật Trưng cầu ý dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015: “Trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật này”. Đối với hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, ngay từ năm 1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và sau đó là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn. Đến năm 2007, trước yêu cầu về việc tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được quy định chi tiết, cụ thể ở các chỉ thị, nghị định cũng như pháp lệnh nên trên. Từ đó, quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam đã và đang ngày càng được phát huy sâu rộng bằng phương thức trực tiếp, góp phần tạo ra sự thống nhất, đồng thuận cao trong xã hội.
Như vậy, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước; có mối quan hệ tác động qua lại với nhau đều có vai trò quan trọng trong nền dân chủ Việt Nam đương đại. Nếu như với hình thức dân chủ đại diện, nhân dân lập ra bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở để quản lý, điều hành xã hội một cách thường xuyên liên tục, giữ vững ổn định thể chế và phát triển đất nước thì với hình thức dân chủ trực tiếp nhân dân lại góp phần làm cho bộ máy nhà nước đó ngày càng hoàn thiện hơn bằng việc giám sát, tham gia đóng góp những ý kiến có giá trị, biểu thị thái độ với các cá nhân hay cơ quan nhà nước do mình lập nên. Việc thực hiện tốt cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp đã và đang là cơ sở vững chắc để xây dựng một thể chế Nhà nước Việt Nam hoàn thiện mà nhân dân là người chủ đích thực của nó.
Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, cả hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đang ngày càng được phát huy sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân lao động, góp phần to lớn vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những thực tế hiển nhiên đó, có thể khẳng định, không có chuyện nhân dân Việt Nam mất hết quyền làm chủ Nhà nước như những luận điệu xuyên tạc của một số phần tử, thế lực phản động đã và đang tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông hiện nay./.






NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI HOẠT ĐỘNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÁP LUẬT CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


 
Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước hiện nay đã và đang đẩy mạnh các hoạt động truyền đạo trái phép trong khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm dụ dỗ, lôi kéo đồng bào tham gia vào các hoạt động gây rối, biểu tình dưới sự điều khiển của chúng, coi đó như“ngòi nổ” để đẩy mạnh các hoạt động phá hoại khác. Vì vậy mà công tác đấu tranh phòng, chống truyền đạo trái phép trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Truyền đạo trái phép được hiểu là hoạt động truyền bá tín ngưỡng tôn giáo không theo các quy định của pháp luật Nhà nước hiện hành, không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, không được các cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép, hoạt động của nó trực tiếp và gián tiếp làm phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc cũng như đời sống tinh thần của nhân dân.
Với chủ trương nhất quán trong giải quyết vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều điều kiện để mỗi công dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng hoạt động tín ngưỡng theo pháp luật. Đã thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Tuy nhiên, với dã tâm phá hoại và mưu đồ cướp nước của kẻ thù, chúng đã dùng “trăm phương ngàn kế” và không từ bất cứ một “thủ đoạn”, hay “chiêu trò” nào dù là đê hèn đến đâu chăng nữa. Hiện nay, chúng đã và đang đẩy mạnh các hoạt động truyền đạo trái phép trong các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều hình thức khác nhau, biểu hiện như:
Một là, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đã móc nối, chi những dòng tiền, những khoản tài chính to lớn cho những kẻ đội lốt khách du lịch, chỉ đạo họ thâm nhập sâu vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa để thu thập dữ kiện, nắm tình hình. Đồng thời, tiến hành các hoạt động tuyên truyền, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo đồng bào tham gia vào các “tà đạo” do chúng tự “dựng” ra với mưu đồ chính trị thâm độc như những tổ chức mà chúng gọi là đạo “Tin Lành Đềga”, đạo “Hà mòn”, đạo “Dương Văn Mình”… Cùng với đó, chúng chỉ đạo cho một số tên phản động trong đạo Cao Đài như Lê Quang Tấn, Lê Ngọc Lượm viết và phát tán nhiều tài liệu phản động chống Đảng và Nhà nước, lớn tiếng đòi đưa những phần tử cực đoan lên nắm chính quyền và phối hợp với số phản động trong đạo Cao Đài  hải ngoại để đẩy mạnh hoạt động chống đối.
Hai là, Lợi dụng nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, cùng với phong tục, tập quán lạc hậu, nhất là quan hệ gia đình theo chế độ mẫu hệ, tệ nạn mê tín dị đoan trong cúng bái chữa bệnh…để tiến hành tuyên truyền xuyên tạc, kích động đồng bào di dân tự do, vượt biên trái phép ra nước ngoài sinh sống gây ra sự bất ổn về an ninh, chính trị đất nước. Điển hình trong hoạt động này là vụ tổ chức di dân trái phép với gần 7000 đồng bào dân tộc Mông từ Tây nguyên ra Mường Nhé (Điện Biên), và qua sống tại các trại tị nạn ở Thái Lan, Cămpuchia,…với các luận điệu lừa phỉnh nhân dân như: “Người dân tộc Mông phải đoàn kết lại”, “ra Mường Nhé để đón Vua Mông”, “sẽ có Nhà nước Mông tự trị” hay “vượt biên sang nước ngoài sẽ được đón sang nước thứ 3 định cư, được chu cấp nhà cửa, tiền của”….
Ba là, chúng thực hiện việc đan cài, móc nối, lợi dụng các tổ chức giáo hội phản động trong nước để biến nó thành công cụ đắc lực thực hiện mưu đồ chính trị. Với các tổ chức giáo hội hợp pháp thì chúng tìm cách từng bước thao túng, lũng đoạn, thâu tóm quyền lực và hướng lái nó đi chệch đường lối tiến bộ. Đồng thời, núp dưới danh nghĩa các giáo hội để đấu tranh đòi yêu sách và công khai các hoạt động chống đối chính quyền cách mạng. Trong các hoạt động này, đáng chú ý là các vụ việc lợi dụng những buổi thuyết pháp, sinh hoạt tôn giáo để tuyên truyền, xuyên tạc, công khai kích động tín đồ chống đối chính quyền cách mạng như: tại buổi thuyết pháp ở chùa Từ Hiếu (Huế) ngày 16/12/2001, Thích Thái Hoà đã trắng trợn kêu gọi: Mỗi tăng ni, phật tử đồng thời phải là nhà chính trị, quân sự, văn hoá giỏi, phải biết tận dụng thời cơ để đẩy nhanh quá trình phục hoạt động của Giáo hội Việt Nam thống nhất, lật đổ đế chế Cộng sản. Hay vào ngày 22/5/2013, linh mục Đặng Hữu Nam, quản xứ Bình Thuận, xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) đã tổ chức cho hàng trăm giáo dân ở nhiều địa phương về nhà thờ họ Trại Gáo cầu nguyện cho các bị cáo trong vụ án Hồ Đức Hòa cùng đồng bọn phạm tội hoạt động chống phá chính quyền nhà nước.
Song song với các hành động trên, chúng còn triệt để lợi dụng những yếu kém, hạn chế của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở khu vực này để mua chuộc, khống chế, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước tại địa bàn và kích động tư tưởng chống đối trong các tầng lớp nhân dân với chính quyền. Đây được coi là những diễn biến mới trong thủ đoạn chống phá của chúng trên lĩnh vực tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bốn là, Khi đã lôi kéo được lực lượng tham gia đủ mạnh, chúng tiến hành dương các khẩu hiệu “tự do tôn giáo”, “vì lợi ích của giáo hội”, “bảo vệ đạo pháp”, “bảo vệ chức sắc”… để kích động và tổ chức cho số đồng bào đã bị lôi kéo gây rối, khiếu kiện tập thể nhằm phục vụ cho “ảo vọng” thành lập các “khu tự trị” và nhà nước riêng của chúng. Minh chứng cho điều này, qua các số liệu tổng hợp, ta thấy  ở Tây Nguyên, chỉ tính riêng từ năm 2001 đến nay đã xảy ra 8 vụ bạo loạn chính trị (ngoài 2 vụ 2/2001 và 4/2004 còn 6 vụ khác, mỗi vụ có hơn 2.000 người tham gia, chủ yếu gắn với đạo “Tin Lành Đêga” và phục vụ cho mưu đồ chính trị đòi thành lập cái gọi là “Nhà nước Đềga” của tổ chức FulRo.
Thâm độc hơn, trong hoạt động này, chúng còn sử dụng những đồng bào bị lôi kéo, dụ dỗ để biến họ thành những “tấm lá chắn”, là những “rào cản sống” bảo vệ chúng khi có sự phát hiện, vào cuộc đấu tranh, xử lý của cơ quan chức thực thi pháp luật. của ta.
Trên đây là một số biểu hiện cụ thể của hoạt động truyền đạo trái phép của các thế lực thù địch nhằm hiện thực hóa chiến lược “Diến biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ ở nước ta. Đó là những hoạt động rất nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó trực tiếp phá hoại khối “Đại đoàn kết toàn dân tộc” và tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần, tư tưởng của nhân dân.
Trước những diễn biến phức tạp của những hành động sự phá hoại của kẻ thù lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo để tiến hành các hoạt động truyền đạo trái phép trên thì việc nhận thức về dân tộc, tôn giáo ở một số cơ quan, địa phương còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó, đáng chú ý là việc chưa thấy hết tính chất phức tạp, lâu dài về vấn đề dân tộc và tôn giáo, thậm chí còn chưa phân định rõ ràng giữa hoạt động tuyên truyền đạo trái phép và tự do tín ngưỡng tôn giáo, nên dễ bị động, lúng túng trong công tác vận động quần chúng đấu tranh cũng như việc giải quyết các tình huống xảy ra trên địa bàn. Chính vì vậy mà việc giải quyết vấn đề này là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, nhạy cảm. Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm đúng mức của cả hệ thống chính trị và vai trò, trách nhiệm của mỗi người dân trong tham gia đấu tranh làm thất bại các thủ đoạn phá hoại thành quả cách mạng, phá hoại sự nghiệp đổi mới của các thế lực thù địch. Quá trình đó, cần tập trung giải quyết tốt một số nhiệm vụ chủ yếu đó là:
Thứ nhất, Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng bộ máy chính quyền, các tổ chức quần chúng vững mạnh, nhất là bộ máy chính quyền cấp xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực và kỹ năng tổ chức hoạt động tuyên truyền cho cán bộ làm công tác vận động quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xóa bỏ tâm lý mặc cảm, tự ti của cán bộ người dân tộc thiểu số. Cùng với đó, phải định kỳ rà soát, xác định địa bàn trọng điểm của công tác vận động quần chúng, nắm chắc phong tục, tập quán của đồng bào cũng như các đối tượng quần chúng để chủ động xây dựng kế hoạch hành động một cách hợp lý, mang lại hiệu quả thiết thực.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý, mỗi cán bộ mà đặc biệt là đội ngũ cán bộ các địa bàn chiến lược, trọng điểm nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải thường xuyên liên hệ mật thiết với đồng bào, kiên trì vận động và hướng dẫn họ chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về vấn đề dân tộc và tôn giáo. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của đồng bào có đạo trong khuôn khổ pháp luật. Đội ngũ cán bộ các cấp phải thật sự gần gũi với nhân dân, với đồng bào. Phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng, giản dị, không tham lam, vụ lợi, không tham ô, lãng phí, tiêu cực mới mang lại hiệu quả cao trong trong công tác tuyên truyền, thuyết phục để quần chúng đồng bào tin và tự giác chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước cũng như củng cố vững chắc mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền và phát động quần chúng nhận diện, đấu tranh phòng,chống hoạt động truyền đạo trái phép của các thế lực thù địch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
Trong cuộc đấu tranh này, phải nhất quán quan điểm lấy phòng ngừa là chính, đồng thời, phải kết hợp giữa đấu tranh trực diện với đấu tranh giáo dục, thuyết phục. Đây vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vừa mang tính cấp bách của các cấp, các ngành, đoàn thể địa phương. Qua đó làm cho quần chúng giác ngộ, nâng cao tinh thần yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận thức sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về lịch sử truyền thống đấu tranh của các dân tộc, tinh thần đoàn kết thống nhất của các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Làm cho quần chúng nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng thấy rõ luận điệu mị dân, tuyên truyền, xuyên tạc, lôi kéo quần chúng của các thế lực thù địch, từ đó tự giác đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Điểm cốt lõi trong hoạt động tuyên truyền là phải làm cho đồng bào cả nước nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng thấy rõ bản chất của những người truyền đạo trái phép là những kẻ “đội lốt tôn giáo”, “cơ hội chính trị”, bọn “việt gian”, “việt cách” được các tổ chức chính trị phản động trong và ngoài nước hỗ trợ, tổ chức huấn luyện, đào tạo trở thành những kẻ chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích nhân dân. Hoạt động của họ không chỉ vi phạm pháp luật Nhà nước ta mà còn trái với phong tục, tập quán, tư tưởng văn hoá của dân tộc.
Thứ ba, bên cạnh những nhiệm vụ trên, Đảng và chính quyền các địa phương phải có các biện pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chât, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, nhân dân các địa phương vùng sâu, vùng xa. Phải kết hợp giải quyết dứt điểm, hợp lý các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện, nhất là khiếu kiện về đất đai trong đồng bào người dân tộc thiểu số.
Tiến hành truyền đạo trái phép để chống cách mạng nước ta của các thế lực thù địch là một “chiêu trò” mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhưng vô cùng thâm độc. Nó gây ra những hệ lụy to lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, và tác động trực tiếp đến đời sống nhân dân cũng như sự ổn định kinh tế, chính trị - xã hội đất nước. Vì vậy, yêu cầu thiết yếu đặt ra phải thường xuyên nêu cao tình thần cảnh giác cách mạng, phát huy tinh thần trách nhiệm của mọi lực lượng, mọi tổ chức tích cực, chủ động tham gia nhận diện và đấu tranh với những âm mưu và hành động phá hoại cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch trên lĩnh vực này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
          1. Chỉ thị số 05-CT/TƯ ngày 14-10-2006 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới
          2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Kết luận số 94-CT/TƯ ngày 30-12-2002 của Ban Bí thư.
5. Nghị quyết số 28, Hội nghị Trung ương 8, khóa XI

NHẬN DIỆN NHỮNG CHIÊU TRÒ PHÁ HOẠI KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH



          Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng chung sống lâu đời, cùng chung sức trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh giành độc lập và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chính quá trình ấy đã xây dựng và hun đúc nên truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; đã tạo nên mối quan hệ gắn bó khăng khít, keo sơn, làm nên sức mạnh to lớn của quốc gia trong công cuộc kiến tạo, xây dựng và phát triển đất nước.
          Truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ngắn gọn và xúc tích là “Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết/ Thành công, thành công đại thành công”. Và điều này cũng đã được thực tiễn sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta khẳng định, kiểm nghiệm như bằng chứng lịch sử không thể chối cãi. Nó đã là nỗi kinh hoàng, khiếp sợ và ám ảnh của bao kẻ thù xâm lược nước ta.
Hiểu rõ điều đó, song những kẻ thù địch với cách mạng cả trong và ngoài nước, với dã tâm phá hoại thành quả cách mạng, chúng luôn coi việc phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một khâu trọng tâm để chống phá, là cửa ngõ để mở đường đẩy mạnh các hoạt động chống phá trên các lĩnh vực khác nhằm tạo ra hiệu ứng và sự cộng hưởng mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực với hy vọng tạo ra những “thời cơ” để chuyển hóa chế độ chính trị - xã hội đất nước.
Trên phương diện lý luận cũng như những hành động cụ thể, mặc dù chúng đã cố tình ngụy tạo để che dấu mục đích và dã tâm xấu độc. Nhưng với ý chí và nhãn quan chính trị của sức mạnh trí tuệ, của sự đoàn kết keo sơn hơn 90 triệu dân, chúng ta hoàn toàn có thể điểm mặt, chỉ tên một cách rõ ràng những mưu mô và hành động của chúng đó là:
Một là, chúng ra sức xuyên tạc các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra sự hoài nghi trong quần chúng nhân dân với Đảng, với các cơ quan công quyền nhà nước.
Với mục tiêu này, chúng đẩy mạnh hoạt động đánh tráo khái niệm, tuyên truyền cho luận điệu “quyền dân tộc tự quyết ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Cho rằng, “Quyền dân tộc tự quyết” tức là “Quyền của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia đa dân tộc được phép quyết định vận mệnh của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và thậm chí có thể ly khai lập Nhà nước riêng hay để tự trị dân tộc”. Hay chúng tung ra luận điệu: “Tây Nguyên là của người Thượng”, “Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi”..., với mục đích không gì khác ngoài âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động xu hướng hướng ngoại để chống phá đất nước.
Rõ ràng những luận điệu trên thực chất là trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm chống đối chính quyền, chống lại sự phát triển cũng như tinh thần đoàn kết của cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Họ đã cố tình đồng nhất giữa quyền dân tộc tự quyết của một quốc gia, đất nước với tư cách là một thành viên của Liên hợp quốc với quyền của một dân tộc thiểu số trong một quốc gia thống nhất. Bởi, quyền dân tộc tự quyết có thể được hiểu như là quyền độc lập của một quốc gia, dân tộc được quốc tế công nhận, có quyền quyết định vận mệnh của mình trên mọi lĩnh vực nhằm xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc đó ngày càng giàu đẹp và phát triển. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quốc tế cũng như không một quốc gia đa dân tộc nào lại đưa ra quy định một dân tộc thiểu số hay một nhóm dân tộc thiểu số ở một quốc gia nào đó được quyền ly khai, thành lập quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận. Việt Nam luôn chủ động, tích cực bảo vệ quyền dân tộc tự quyết và quyền của người dân tộc thiểu số; đồng thời cũng kiên quyết nghiêm trị bất cứ lực lượng chống đối nào có hành vi vi phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Hai là, chúng đầu tư tiền của mua sắm, gây dựng các công cụ, phương tiện tiến hành hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam như: lập hội nhóm trí thức trá hình ở hải ngoại và quốc nội như: “Việt Tân”, “Cao trào Nhân bản”, “BP SOS”, “Đảng dân chủ Việt Nam”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội cựu tù nhân lương tâm, No-U”, “Hội nhà báo độc lập Việt Nam”, “Hội phụ nữ nhân quyền”,… để lôi kéo lực lượng tham gia, đăng tải các bài viết, hình ảnh chế, phim xuyên tạc… trên Internet, lập nhiều website, blog để viết bài, tung tin xuyên tạc, “đánh lận con đen” chống phá con đường và sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong hoạt động này, chúng luôn ưu tiên việc dùng tiền để mua chuộc những người nhẹ dạ cả tin, nhất là những cán bộ của Đảng, Nhà nước nhưng do lười tu dưỡng, rèn luyện mà thoái hóa, biến chất để cung cấp tài liệu phản động và chỉ đạo phát tán. Cũng có nơi chúng lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý của chính quyền, cơ quan chức năng để tổ chức chiếu đĩa DVD, VIDEO tuyên truyền, lôi kéo, ép buộc những người dân nhận thức hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, hay hám lợi trước mắt tham gia vào các hoạt động của họ.
Ba là, Chúng chủ động dựng cảnh, dàn dựng những tư liệu mang tích chất bịa đặt để xuyên tạc, phê phán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta như: dựng cảnh người dân ăn mặc rách rưới, nhem nhuốc... rồi chụp ảnh, quay camera gửi ra nước ngoài tung lên một số trang mạng xã hội, tạo sự hoài nghi, kích động sự phẫn nộ trong tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, chúng luôn triệt để lợi dụng những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực để ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ.
Bốn là, bên cạnh những hoạt động trên, với phương châm lấy vấn đề dân tộc, tôn giáo làm “ngòi nổ”, các thế lực thù địch luôn chú trọng việc lợi dụng những vấn đề “nhạy cảm” như: “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”,… để tạo dựng mặt trận chống phá. Hiện nay, chúng đang tập trung vào một số hoạt động chủ yếu như: Tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá; Dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức hoạt động chống Việt Nam; Hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá.
Đặc biệt, lợi dụng tình hình tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ở một số địa phương, chúng đã lợi dụng người cầm đầu tổ chức tôn giáo ở đó để kích động, xô đẩy giáo dân vào cuộc đấu tranh mang màu sắc chính trị, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp; Chỉ đạo cho một số đối tượng cực đoan, núp dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số nhằm lừa phỉnh, dụ dỗ, xúi giục, kích động các tín đồ bỏ lao động sản xuất để tham gia hoạt động biểu tình chống đối chính quyền.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức  và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.  
Ngay từ Đại hội lần thứ nhất các dân tộc thiểu số (ngày 3-12-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ sức đoàn kết trong đấu tranh của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không có sự phân chia nòi giống, tiếng nói...”.
Để tiếp tục đấu tranh triệt phá những âm mưu kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch chúng ta cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trong đó, trước hết, các cấp chính quyền cần kịp thời nhận diện những âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch để có biện pháp quán triệt, giáo dục nhận thức cho toàn thể nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không sa vào bẫy của kẻ thù; phải chăm lo phát huy và thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân theo pháp luật, tăng cường sự đồng thuận xã hội và phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến của nhân dân, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân. Muốn vậy, cần phải kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cùng với xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến công tác quản lý xã hội. Trong công tác này, đòi hỏi mỗi cán bộ của Đảng phải gần gũi, sát dân để nắm chắc địa bàn và kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng. Đó chính là cơ sở, nền tảng để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đề cao cảnh giác trước âm mưu “Phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, phản động



“Phi chính trị hóa Quân đội” là một luận điểm phản động nằm trong chiến lược “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhưng lại được kẻ thù thực thi thành công ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây. Hiện nay, đây là vẫn là vấn đề rất nhạy cảm, do vậy cần được nghiên cứu, luận giải một cách khoa học để chỉ ra bản chất thực sự của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra: Bản chất của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, nhà nước nhất định nhằm bảo vệ lợi ích căn bản của giai cấp, nhà nước ấy. Bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào bản chất của giai cấp, nhà nước tổ chức ra, nuôi dưỡng và sử dụng quân đội đó.
Xuất phát từ quan điểm “nhà nước siêu giai cấp”, “nhà nước phúc lợi chung”, “nhà nước toàn dân”, chủ nghĩa cơ hội xét lại hiện đại khi bàn đến vấn đề bản chất giai cấp của quân đội lại rêu rao rằng:
Thứ nhất, quân đội là một tổ chức quân sự, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước. Vì vậy, bất cứ nhà nước, quốc gia nào cũng cần tổ chức ra quân đội, sử dụng quân đội để bảo vệ lợi ích, hoặc mở rộng lợi ích quốc gia, nhà nước.
Thứ hai, quân đội chỉ tuân theo Hiến pháp, quân đội được tổ chức ra để bảo vệ lợi ích quốc gia nói chung. Vì vậy, quân đội không nhất thiết phải là quân đội XHCN hay TBCN (không cần có tính từ). Theo đó quân đội có thể trung lập, đứng ngoài chính trị, đứng trên giai cấp.
Thứ ba, quân đội cũng là một nghề nghiệp, mỗi quân nhân là những người làm công, ăn lương, nhà nước nào trả lương cao thì tham gia…
Nghiên cứu kĩ luận điểm trên có mấy vấn đề chúng ta cần suy ngẫm:
Một là, khi luận giải bản chất của quân đội họ đem đồng nhất mặt bạo lực vũ trang mà bỏ qua mặt xã hội, tức bản chất giai cấp, nhà nước của quân đội (quân đội bao giờ cũng do nhà nước, giai cấp tổ chức ra, nuôi dưỡng và sử dụng).
Hai là, quân đội chỉ tuân theo Hiến pháp nhà nước, quốc gia. Trong xã hội có giai cấp, mỗi quốc gia, nhà nước nhất định đều có Hiến pháp riêng, phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị (không có Hiến pháp phục vụ, bảo vệ lợi ích của mọi giai cấp, mọi tầng lớp…).
Ba là, thực tiễn phát triển của lịch sử, xã hội đã chứng minh rằng: từ xưa đến nay chưa hề có một “nhà nước siêu giai cấp”, “nhà nước phúc lợi chung”, “nhà nước toàn dân”. Theo đó, không thể có một quân đội do nhà nước, giai cấp nhất định tổ chức ra, nuôi dưỡng lại đứng ngoài chính trị, đứng trên giai cấp.
Trên thực tế, khi một chế độ xã hội này bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác, thì quân đội hoặc bị giải tán, hoặc được cải tạo để phục vụ cho một giai cấp, nhà nước thống trị mới (Quân đội các nước Đông Âu sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2; Quân đội các nước Đông Âu, Liên Xô sau chính biến chính trị 8/1991 và 10/1993 là ví dụ).
Do đó, thực chất “Phi chính trị hóa quân đội” là phủ nhận, xóa nhòa bản chất giai cấp của quân đội, nhằm: phi vô sản hóa để từng bước tư sản hóa quân đội vốn là quân đội cách mạng; tước vũ khí của giai cấp vô sản, vô hiệu hóa công cụ bạo lực để chuyển sang tay giai cấp thống trị khác; tiến tới xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, mỗi chúng ta phải đề cao cảnh giác trước âm mưu “Phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, phản động; tích cực nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng; xây tổ chức đảng TSVM; dựng cơ quan, đơn vị VMTD; nâng cao nhận thức để nhận diện và đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại âm mưu “Phi chính trị hóa quân đội” của chúng.

KHÔNG CÓ CHUYỆN ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM ÁP ĐẶT CHẾ ĐỘ “TOÀN TRỊ” Ở VIỆT NAM



          Trong thời gian vừa qua, các đối tượng thuộc tổ chức “Xã hội dân sự”, thực chất thực chất là lực lượng phản động chống đối cực đoan, cơ hội chính trị và một số phần tử phản động khác đã tán phát nhiều tài liệu trên các trang mạng xã hội, bloger cá nhân, xuyên tạc sự thật về quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng hồn nhiên vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp đặt chế độ “toàn trị” trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cho người dân bị o ép và mất hết các quyền đó. Thực chất, đây vẫn là những giai thoại lạc điệu do chúng bịa đặt hòng làm giảm sút niềm tin, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Trước hết, cần phải tái khẳng định rằng, những luận điệu cũ rích này được nhai đi nhai lại nhằm mục đích lừa bịp, gây tâm lý hoài nghi, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó đã tỏ rõ thái độ cố tình “nhắm mắt” trước hiện thực đất nước và con người Việt Nam của những người đã một thời làm tay sai cho kẻ thù xâm lược, nhưng cho đến nay vẫn còn mang nặng tâm lý hận thù, quyết tâm chống phá Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đến cùng.
Tiếp đó là tâm lý “tát nước theo mưa” của một số người được sinh ra và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, họ cũng được ăn học hẳn hoi, nhưng đã bị mua chuộc, lừa phỉnh dẫn tới bất nãm, thoái hóa biến chất nên đã quay lưng với dân tộc để cổ xúy, tiếp tay cho kẻ địch. Tuy nhiên, các thế lực phản động càng hằn học, vu khống trắng trợn và ngụy biện bao nhiêu, chúng lại càng trở nên lạc lõng, nhảm nhí và thớ lợ bấy nhiêu, vì hầu hết những người dân Việt Nam đều biết rằng, thực chất đây là sự bịa đặt nhằm phục vụ cho ý đồ đen tối, âm mưu hèn hạ của những kẻ lưu manh chính trị!
Một thực tế hiển nhiên là không ai có thể phủ nhận rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, cho dù là ai, thuộc tầng lớp xã hội nào, đã là công dân Việt Nam thì đều được pháp luật tôn trọng, bảo hộ đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp. Những quyền và lợi ích hợp pháp đó đã và đang được phát huy ngày càng tốt hơn trong đời sống xã hội.
Sự thật là những quyền cơ bản của người dân Việt Nam đã được chế định rõ như ban ngày tại Hiến pháp năm 2013. Xin nói thêm rằng, với tư cách là đạo luật gốc của Nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã tiếp thu hơn 26 triệu lượt ý kiến của các tầng lớp nhân dân trước khi được Quốc hội Khoá XIII thông qua. Không chỉ riêng Hiến pháp năm 2013, mà các bản Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến nay đều khẳng chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước Việt Nam thuộc về nhân dân Việt Nam. Trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, Hiến pháp Việt Nam là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tuyệt nhiên, bản Hiến này cũng như các bản Hiến pháp trước đó không phải là sự “biến ý Đảng thành lòng dân” như một số kẻ phản động và lưu manh chính trị vẫn thường rêu rao!
Tại Khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Điều hiển nhiên là không chỉ riêng ở Việt Nam, mà dù ở bất cứ quốc gia nào, với chế độ chính trị nào, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội của công dân đều không tách rời nhau. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân sẽ không bị hạn chế khi không xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Khoản 2, Điều 14, Hiến pháp năm 2013 cũng nêu rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, cho dù bất cứ ai, nếu vi phạm Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam đến mức phải đưa ra xét xử thì đều bị đưa ra xét xử công khai và chịu sự chế tài của luật pháp. Đương nhiên khi đó một số quyền của người bị xét xử sẽ bị hạn chế theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ phạm tội.
Như vậy, những luận điệu trên của các đối tượng thuộc tổ chức “Xã hội dân sự” và một số phần tử phản động khác đã phát tán là sự xuyên tạc trắng trợn, nó hoàn toàn lạc lõng, xa lạ với tình hình thực tế ở Việt Nam. Mục đích của chúng không có gì khác là làm lung lạc nhận thức, tư tưởng và làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam./.


Trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình"



Chiến lược “Diễn biến hòa bình” là một trong những kế hoạch của các thế lực thù địch do chủ nghĩa đế quốc khởi xướng và thực hiện được tiến hành trên diện rộng mang tính chất toàn cầu. Mục đích của chiến lược “Diễn biến hoà bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một chế độ xã hội tiến bộ, ưu việt nhất hiện nay. Để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” kẻ thù đã liên tiếp, triển khai và sử dụng các chiêu bài, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa. Điều lo ngại nhất là đối tượng của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực nhằm vào chủ yếu là thế hệ trẻ, những lực lượng trụ cột, tương lai của nước nhà. Bởi chúng cho rằng, thế hệ trẻ tuy là những người nắm ước mơ, hoài bão, khát khao được khẳng định, bứt phá và cống hiến nhưng bản lĩnh và kinh nghiệm sống còn non yếu, còn thiếu dễ bị cám dỗ, mua chuộc, lôi kéo…
Đối với Nước ta, trong những năm qua các thế lực thù địch đã âm thầm triển khai và sử dụng tổng hợp các chiêu bài trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng, an ninh quốc phòng… tập trung vào nhiều đối tượng, trong đó có thế hệ trẻ, cụ thể là lực lượng thanh niên, đội ngũ trí thức. Với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi như: tuyên truyền lối sống tư sản, đề cao lợi ích cá nhân, lối sống thực dụng, buông thả, ăn chơi, coi nhẹ giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục… đã khiến cho một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên đang bị cuốn hút, bị lôi kéo và sa ngã vào những lối sống thiếu lành mạnh, bị trượt dài trên con đường ăn chơi, tội lỗi. Có những bạn trẻ hiện nay đã không ngần ngại lựa chọn cho mình một lối sống đi ngược với giá trị đạo đức truyền thống, với thuần phong mỹ tục của con người Việt Nam, đó là lối sống thực dụng, sống thử, sống gấp không cần mục tiêu, lý tưởng, bất chấp mọi dư luận để đạt mục đích ích kỷ của cá nhân, thỏa mãn sở thích, thú vui tầm thường… Đó thực sự là những điều đáng lo ngại mà chúng ta phải thực sự có những nhìn nhận nghiêm túc và hành động cấp bách để giúp thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc, đúng đắn về những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù tránh ảo tưởng, mơ hồ góp phần đấu tranh một cách chủ động, tích cực làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày càng giàu mạnh và bền vững.
Để giúp thế hệ trẻ nhận thức rõ được vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cận tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những kiến thức nền tảng, lý luận khoa học, cách mạng nhất hiện nay có vai trò, tác dụng rất lớn trong giáo dục, bồi dưỡng về mục tiêu, lý tưởng, lập trường bản lĩnh cách mạng cho thế hệ trẻ. Khi thế hệ trẻ đã thấm nhuần lý luận cách mạng họ sẽ có được một sự “kháng nguyên” cao với những âm mưu, thủ đoạn và hành động phản cách mạng của các thế lực thù địch. Thế hệ trẻ sẽ nhạy bén hơn, chủ động hơn trong đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” bảo vệ sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng bền vững và giàu mạnh.
Trong giáo dục lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ, phải chú ý về phương pháp, cách thức và nội dung giáo dục sao cho thật phong phú, hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, tránh hình thức, sáo rỗng, chạy theo hình thức. Điều cần tập trung đột phá trong thời gian tới đó là phải đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục như: Tổ chức thi tìm hiểu, tổ chức các chương trình văn nghệ, đưa vào chương trình giáo dục của các cấp học, ngành học… đặc biệt phải vận động, thu hút được thế hệ trẻ tham gia vào các hoạt động thực tiễn trong đấu tranh, phòng chống làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bởi chỉ khi nào thế hệ trẻ thấy rằng, việc cần có những hiểu biết đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” thì khi đó họ sẽ nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu một cách tự giác, có hệ thống. Giáo dục tốt là cơ sở, con đường thuận lợi đầu tiên cho những hiểu biết và hành động đấu tranh tích cực, kiên cường và sáng tạo của thế hệ trẻ sau này.
Thứ hai, xây dựng trường sống lành mạnh để thế hệ trẻ học tập, tu dưỡng và rèn luyện tốt.
Môi trường là yếu tố có vai trò, ảnh hưưởng, tác động lớn tới quan điểm, lối sống, bản lĩnh, lập trường của thế hệ trẻ qua các giai đoạn, lứa tuổi. Thế hệ trẻ sẽ khó thiết lập được lối sống lành mạnh, sống vì mục tiêu, lý tưởng nếu như xã hội luôn đầy dẫy những bất công, tham nhũng, những vụ việc tiêu cực. Để thế hệ trẻ ngày nay có một môi trường tốt, cần có sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự “chung tay, góp sức” của toàn xã hội. Cần phải tạo nên những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, thân thiện trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng, đề cao tình yêu thương con người, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, xây dựng dư luận xã hội tích cực hướng tới thế hệ trẻ. Cùng với đó, phải thường xuyên tổ chức phát động các phong trào hướng tới cộng đồng, các hoạt động thực tiễn như: Giúp đỡ trẻ em nghèo, những số phận khó khăn… để từ đó thế hệ trẻ biết sống yêu thương, biết chia sẻ, sống có trách nhiệm hơn với bản thân và cộng đồng. Mặt khác, cần phải tích cực và kiên quyết đấu tranh loại trừ những tệ nạn xã hội, những tiêu cực có ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Chỉ có một môi trường tốt, lành mạnh mới hun đúc và hình thành nên những nhân cách tốt, những bản lĩnh vững vàng chống lại những cái xấu.
Thứ ba, tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức đoàn trong tập hợp, giáo dục và tu dưỡng thế hệ trẻ
Đoàn là nơi tập hợp, giáo dục và rèn luyện cho thanh niên về mục tiêu, lý tưởng và lẽ sống ở đời. Do vậy, vai trò của đoàn thời kỳ nào cũng trở nên quan trọng và không thể coi nhẹ. Để giúp thế hệ trẻ nhận thức được diện mạo, tính hiểm độc và những tác hại khôn lường của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, từ đó nâng cao tính cảnh giác, tích cực đấu tranh thì đoàn phải đưa nội dung này thành chương trình giáo dục có tính chất quan trọng, thường xuyên đối với thế hệ trẻ. Điều đáng lưu ý là phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục sao cho hấp dẫn, hiệu quả tránh để xảy ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, “phát nhưng không động” gây nhàm chán cho thế hệ trẻ. Đồng thời, đoàn cũng cần tập trung xây dựng, phát hiện những gương sáng điển hình trong học tập, rèn luyện và đấu tranh tích cực với chiến lược “Diễn biến hòa bình” trong thanh, thiếu niên để từ đó nhân rộng, tạo sức lan toả tích cực, rộng lớn góp phần ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu đen tối của các thế lực thù địch.
Thứ tư, Mỗi bạn trẻ phải là một tấm gương sáng đi đầu trong phong trào đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
Bác Hồ đã từng dạy rằng: Mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp rực rỡ sắc màu. Thế hệ trẻ là lực lượng trụ cột của nước nhà, tương lai đất nước ra sao nhìn cả vào thế hệ trẻ, thế hệ trẻ chỉ có thể được xây dựng hùng mạnh khi bản thân mỗi bạn trẻ là một tấm gương tiêu biểu trong học tập, tu dưỡng. Mọi nỗ lực của xã hội hướng vào thế hệ trẻ chỉ có ý nghĩa khi mỗi bạn trẻ ý thức được sứ mệnh cũng như trách nhiệm của mình từ đó không ngừng phấn đấu khắc phục những hạn chế từng bước hoàn thiện bản thân trở thành những công dân tốt, tích cực cống hiến cho xã hội. Để giúp thế hệ trẻ luôn hoàn thành tốt vai trò, trách nhiệm của mình cần phải khơi dậy trong họ những giá trị truyền thống, thái độ sống nhiệt tình, tích cực với tinh thần biết ơn, có trách nhiệm với những hy sinh, cống hiến của thế hệ cha anh. Phải làm cho thế hệ trẻ thấy được rằng, mình không được phép lãng quên quá khứ và cần phải sống có trách nhiệm cao với tương lai của mình, của đất nước. Chỉ có như vậy, thế hệ trẻ mới phát huy được hết vai trò, khả năng và trách nhiệm của mình với tư cách là những lực lượng kế cận tin cậy của nước nhà.
Thiết nghĩ, thế hệ trẻ là chủ nhân của đất nước, lực lượng trụ cột góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong mọi thời kỳ, giai đoạn, họ chính là “nguyên khí của quốc gia” có sứ mệnh xây dựng đất nước ngày càng to đẹp hơn, đàng hoàng hơn, đúng theo di nguyện của Bác Hồ. Do vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ luôn là nhiệm vụ quan trọng phải được đặt lên hàng đầu, để thế hệ trẻ ngày càng vững bước, tự tin, hình thành cho mình bản lĩnh của thanh niên cách mạng thế hệ Bác Hồ. Trong đó, hiện nay việc giúp thế hệ trẻ nhận thức đúng, có hiểu biết sâu sắc và tích cực đấu tranh có hiệu quả làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhất thiết phải có sự “chung tay góp sức của toàn xã hội./