PHÊ PHÁN, BÁC BỎ
NHỮNG QUAN ĐIỂM CHO RẰNG ĐẢNG TA PHÂN
BIỆT,
ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành
công”[1]. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Quán triệt tư tưởng của Người Đảng ta
nhận thức rõ vai tròcủa đoàn kết – là cội nguồn sức mạnh trong xây dựng và phát
triển đất nước. Đại hội XIII khẳng định: “… khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”
nhằm mục tiêu đưa
Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, khu vực, tình hình kinh tế, xã hội ở trong nước, các thế lực thù địch
đã ra sức tuyên tuyền xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng trên nhiều vấn
đề, trong đó có vấn đề về đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, mỗi chúng ta cần nhận
diện và nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh, phê phán
những quan điểm sai trái, thù địch với tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn
dân tộc của Đảng, nhất là quan điểm cho rằng:
Đảng ta phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số - Đây là quan điểm sai trái
thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết, gây kích động nhằm thực hiện mưu đồ
đen tối của các thế lực thù địch.
Phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc Việt
Nam, trước yêu cầu tập hợp sức mạnh toàn dân cho công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khi bàn về đại đoàn kết toàn
dân tộc Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, no đói giúp nhau… Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng
ta… Giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta
phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta”[2].
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
luôn khẳng định, đồng bào các dân tộc thiểu số là máu thịt của dân tộc Việt
Nam, là bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng,
Nhà nước và Nhân dân ta luôn trân trọng và ghi nhớ những đóng góp, hy sinh của
đồng bào, chiến sĩ các dân tộc thiểu số trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, trong thời kỳ mới,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo phát triển vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số cùng với sự phát triển chung của cả nước. Đồng bào các dân tộc thiểu
số là một bộ phận quan trọng trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, có vai trò to
lớn trong phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc. Nếu ai kỳ thị với đồng bào dân tộc thiểu số là đi ngược lại với truyền
thống lịch sử dân tộc, là trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Hành động này là mắc mưu của các thế lực thù địch đẩy đồng bào các
dân tộc thiểu số (một lực lượng cách mạng to lớn) về phía của kẻ thù. Vì vậy,
phân biệt, đối xử với đồng bào các dân tộc thiểu số đây chính là những luận
điệu sai trái, phản động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng,
Nhà nước với Nhân dân; kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số chống phá
Đảng, Nhà nước, gây rối làm mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội.
Thời gian vừa qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách
thức trong phát triển kinh tế, xã hội, nhưng với quan điểm “không để ai bị bỏ
lại phía sau”, Nhà nước đã xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch thúc
đẩy sự phát triển, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, các dân tộc, đem lại
những thay đổi lớn lao trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính
sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng
thực hiện vấn đề này. Tiêu biểu như Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ
Chính trị Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội
miền núi; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc; Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày
20-10-2015 của Ban Bí thư Về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số… Những chủ trương, đường lối, quan điểm đó
của Đảng được Nhà nước tích cực thể chế hóa thành nhiều luật, pháp lệnh, nghị
định, quyết định, chỉ thị, thông tư. Từ năm 2010 đến 2015, Chính phủ đã ban
hành khoảng 154 chính sách về vấn đề dân tộc.
Đánh giá về kết quả của việc thực hiện các chủ
trương, đường lối đối với đồng bào các dân tộc trong thời gian qua, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng, khẳng định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các
nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã
hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số”[3]. Cùng
sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nỗ lực, cố gắng của chính quyền địa
phương và đồng bào các dân tộc thiểu số, kinh tế, văn hóa, xã hội… vùng dân tộc
thiểu số có bước phát triển quan trọng: 99,4% xã có đường ô tô đến trung tâm;
99,5% xã có trạm y tế; 100% xã có điện; 90% xã được phủ sóng, phát thanh truyền
hình; 100% xã có trường mầm non, tiểu học; tỷ lệ hộ nghèo giảm mỗi năm 3-4%;
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên.
Như vậy có thể nói, đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, xây dựng đoàn kết toàn dân tộc là
bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu đã được lịch sử dân tộc ta chứng minh. Bằng
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta
đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giành
độc lập, tự do cho dân tộc và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới đòi hỏi không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó
là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Do vậy, mỗi
cán bộ, đảng viên và mỗi người dân bên cạnh việc nhận thức đúng đắn và thực
hiện nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về đại đoàn kết dân tộc, cần nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, phê phán
những quan điểm sai trái, thù địch, trái với tư tưởng chiến lược đại đoàn kết
dân tộc của Đảng góp phần củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, tạo động lực to
lớn để phát triển đất nước nhanh và bền vững./.
Hiện nay có rất nhiều kẻ phản động vì những đồng tiền dơ bẩn đã xuyên tạc và chống phá đất nước; chúng ta phải vạch trần và đấu tranh loại bỏ thủ đoạn của chúng
Trả lờiXóa