VAI TRÒ GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
=======================
Giai cấp công nhân có sứ
mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội mới
tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại trên phạm
vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới của đất nước và
thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, nhiều ý kiến đặt ra cho việc
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Đảng ta khẳng định giai cấp công
nhân Việt
1. Giai cấp công nhânViệt
Nam - lực lượng đi đầu trong quá trình xây dựng và bảo vệ chế độ XHXN, trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Do điều kiện lịch sử ở một nước
thuộc địa, GCCN Việt Nam ra đời và trưởng thành gắn liền với cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc và đi lên xây dựng CNXH. GCCN Việt Nam có mối quan hệ tự
nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với tầng lớp trí thức và nhân dân lao
động. Đó là những cơ sở để xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức bền
vững ở nước ta. Đó cũng là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc bảo đảm vị trí lãnh
đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Sau hơn 25 năm tiến hành đổi mới, từ một
nước nông nghiệp là chủ yếu, chúng ta đang chuyển dần thành một nước công
nghiệp theo xu hướng hiện đại. Tham gia vào đủ các thành phần kinh tế. GCCN
Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế và đã có nhiều cố gắng để phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh
giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong những năm đổi mới, GCCN nước ta đã có những bước phát triển tích cực,
mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời
chất lượng đội ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ phận công nhân trí thức. Cùng
với các giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
GCCN đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, GCCN là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền
kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng GCCN ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong
tổng số dân cư (khoảng 11%) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương
tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ
yếu của nền kinh tế. GCCN là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân
sách nhà nước. Hằng năm GCCN đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo
đảm hơn 60% ngân sách nhà nước. Sự lớn mạnh của GCCN là nhân tố quan trọng để
đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết
Hội nghị T.Ư 6 (khóa X) khẳng định: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch
sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng”. Mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến năm 2020 là đưa Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong thời gian từ nay đến mốc
thời gian đó, kinh tế thế giới chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ
tăng trưởng kinh tế sẽ cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo sẽ ngày
càng gia tăng. Do vậy, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải đẩy mạnh hơn, CNH phải
gắn với kinh tế tri thức để rút ngắn thời gian, bảo đảm kinh tế phát triển bền
vững, môi trường được bảo vệ, an sinh xã hội được tăng cường, xã hội phát triển
hài hòa, nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng, trình độ cao. Trong bối cảnh
đó, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH ở nước ta, với đầy đủ những mặt tích cực và cả những mặt
trái của nó đặt ra cho GCCN Việt Nam những đòi hỏi mới, những thử thách mới
phải vượt qua. Tuy vậy, việc nhận thức đúng và phát huy vai trò của giai cấp
công nhân trong thời kỳ mới còn nhiều bất cập. Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa
X) chỉ rõ: “Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa
đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ
mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công nhân,
nhưng chính sách, pháp luật này vẫn còn hạn chế...”; “tỷ lệ đảng viên và cán bộ
lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp... Lợi ích một bộ phận công nhân được
hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng
góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang
có nhiều khó khăn, bức xúc...”. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa
được thể hiện đầy đủ. Sự phát triển của giai cấp công nhân cũng chưa đáp ứng
được yêu cầu về số lượng, về cơ cấu và trình độ học vấn, về chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp cho sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta vẫn
còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động ở một bộ phận công
nhân còn nhiều hạn chế; những nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác mới
gia nhập hàng ngũ GCCN chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Nhằm khắc phục
những tồn tại yếu kém để xây dựng GCCN đủ sức đảm nhiệm được sứ mệnh của mình
là lực lượng chủ yếu đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta yêu cầu: Tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về GCCN trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước
trí thức hóa GCCN; quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai
cấp, tính dân tộc cho công nhân; sửa đổi, bổ sung, xây dựng hệ thống chính
sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò công đoàn và các tổ chức
chính trị - xã hội khác trong xây dựng GCCN. Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng, giữa GCCN với tất cả các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc - động lực chủ yếu của sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời tăng
cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với GCCN trên thế giới. Chiến lược xây
dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và chăm lo xây
dựng GCCN; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động,
Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách đang đặt
ra của GCCN. Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới của
sự nghiệp cách mạng. Để xứng đáng là lực lượng đi đầu, GCCN phải vươn lên về
mọi mặt. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang tầm với sự nghiệp
CNH, HĐH, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ
quan trọng và cấp bách hiện nay, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị cũng như mỗi người công nhân. Cả hệ thống chính trị, nòng cốt
là cấp ủy và chính quyền các cấp cùng tổ chức công đoàn cần ra sức quán triệt
và thực hiện sáng tạo tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa X)
để xây dựng GCCN vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Hiện nay, có một số luận điệu cho rằng: Trong điều kiện khoa học kĩ thuật
và công nghệ hiện đại thì giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng teo đi, vì họ
không còn sứ mệnh lịch sử nữa. Cần nhận thức rằng đây là những luận điệu phản
động, sai lầm và phản khoa học. Do tác động của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã
hội đã có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân hiện đại” khác với
“giai cấp công nhân cổ điển” ở thời kỳ thế kỷ XIX, thời kỳ C.Mác còn sống, trên
một số điểm như là : Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số người sản xuất trực
tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu
nhập khá hơn trước, làm cho một bộ phận người lao động trở thành “trung lưu
hóa”. Một bộ phận trong giai cấp công nhân
đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý
ngày càng có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức năng phụ của giới chủ. Những
biểu hiện trên đây chứng tỏ giai cấp công nhân ngày càng phát triển, chứ không
phải "teo đi" như một số người quan niệm. Ở thế kỷ XIX giai cấp công nhân chủ
yếu là lao động chân tay, điều kiện sản xuất lúc đó còn hạn chế. Ngày nay trong
điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp
công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động
trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu của tin học. Giai cấp
công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm vụ của mình
trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức” và “trí thức
hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của quá trình tự động
hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của mình
và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá
trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lón cho xã hộị.
Giai cấp công nhân bao
gồm những người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ công nghiệp; những
nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ phục
vụ cho sản xuất; những kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức
năng của công nhân lành nghề trong sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất.
Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công xưởng, nhà
máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu biểu
cùng với quá trình phát triển của giai cấp công nhân, bộ phận trí thức gắn trực
tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp tạo ra của
cải vật chất cho xã hội cũng nằm trong nội dung khái niệm giai cấp công nhân. Trong
điều kiện ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có
nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất:
Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng được nâng cao về trình
độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công'nhân truyền thống giảm
dần. ở các nước tư bản phát triển “công nhân áo xanh” chỉ chiếm 12 - 15% tổng
số công nhân. ở Italia công nhân kỹ thuật cao “công nhân áo trắng” chiếm 53%
tổng số công nhân. ở Nhật 90% công nhân có trình độ đại học. ở Tây Ban Nha công
nhân kỹ thuật chiếm 53%. Công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ tăng lên
xấp xỉ 50% tổng số công nhân. Mặc dù một số ít trong giai cấp công nhân có cổ
phần trong các xí nghiệp của tư bản, nhưng về cơ bản giai cấp công nhân vẫn bị
bóc lột, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân biệt giàu nghèo và tình
trạng bất công xã hội vẫn tăng lên, bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn
tại, dù được biểu hiện dưới hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hóa tuyệt đối
lẫn bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ
phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc làm được cải thiện
mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn không xóa được sự phân
hóa giàu nghèo. Chính những nhà xã hội học tư sản tiến bộ đã chứng minh ở các
nước tư bản hiện nay sự bóc lột còn cao hơn và với cơ chế càng tinh vi hơn thời
Mác. Tỉ lệ m/v thời Mác là 1/1 thì thời nay là 3/1. Như vậy dù mức sống có cao
hơn trước, dù công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu trong hội
đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là
người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực
chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp
công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp
tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể
chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản
về đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để
xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ
nghĩa phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội
chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói chung, trước đây cũng
như hiện nay.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật chất
trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện
đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự
phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng
với nông dân, trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực
lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
Giai cấp công nhân Việt
2. Một số đặc điểm chi phối
quá trình xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH hiện
nay.
Một là, Chúng ta đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới. Thế
giới có nhiều chuyển biến. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển rất
mạnh mẽ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển nhanh chóng càng tăng
nhanh xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa và càng làm cho xu thế phụ thuộc lẫn
nhau trong cộng đồng quốc tế về kinh tế, chính trị ngày càng rõ. Điều đáng chú
ý là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế bị chi phối bỏi các tổ chức, tập đoàn
kinh tế khổng lồ của các nước tư bản phát triển. Các công ty xuyên quốc gia
đang trở thành hình thức chủ yếu của sự quốc tế hóa tư bản độc quyền. Do thực
lực mạnh mẽ của chúng, các công ty xuyên quốc gia đang thao túng nền kinh tế và
chính trị của các nước sở tại, từ đó tăng cường thế lực của các trùm tài chính
trên lĩnh vực kinh tế và chính trị quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia có đặc
điểm mới mà các tổ chức độc quyền khác không có. Họ có chiến lược toàn cầu của
mình, lấy thị trường thế giới làm mục tiêu cạnh tranh, lấy nhân dân toàn thế
giới làm đối tượng bóc lột. Hệ thống các công ty con rải khắp thế giới đảm bảo
cho việc kinh doanh và thực hiện mục tiêu lâu dài của các công ty xuyên quốc
gia. Hiện nay, trong nền kinh tế thế giới có khoảng 3700 công ty xuyên quốc gia
thực thụ kiểm soát 80% hoạt động nghiên cứu và triển khai, 60% mậu dịch quốc
tế, 40% sản lượng công nghiệp, 90% đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Với tiềm lực
kinh tế to lớn, với hệ thống chi nhánh trải rộng khắp thế giới, các công ty
xuyên quốc gia vừa là sản phẩm của quá trình quốc tế hóa sản xuất và tư bản lại
vừa thúc đẩy mạnh hơn nữa quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, vừa hợp tác vừa
cạnh tranh dưới những hình thức mới, phong phú, đa dạng. Nó vừa tạo thời cơ cho
những nước đi sau có thể rút ngắn quá trình phát triển của mình, vừa đặt ra những
thách thức lón dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn của những nước đang phát triển.
Từ thách thức này, đòi hỏi các nước đang phát triển phải nắm được thời cơ, phát
huy thế mạnh của mình, ra sức xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, áp
dụng tốt những thành tựu của khoa học và công nghệ để đưa nền kinh tế của đất
nước mình phát triển nhanh hơn.
Hai là,
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ tư bản và tiền tư bản chủ
nghĩa; từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa; xóa bỏ áp bức bóc lột; giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn nhân
loại.
Sứ mệnh này được thực hiện trên phạm vi thế
giới với hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất giai cấp công nhân và chính đảng của
nó tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền, trở thành giai cấp thống trị
“giai cấp công nhân phải tự mình trở thành dân tộc”; giai đoạn thứ hai, giai
cấp công nhân liên minh với quảng đại quần chúng nhân dân do đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mối
quan hệ giữa giai cấp với dân tộc, giải quyết trước hết trên địa bàn dân tộc có
ý nghĩa rất quan trọng. Trong điều kiện ngày nay việc giải quyết tốt nhiệm vụ
trên địa bàn dân tộc, phát huy nội lực của dân tộc mình để khỏi tụt hậu để phát
triển lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Phát huy nội lực là một khái
niệm rộng, bao hàm nhiều vấn đề. Đó là giải quyết mối quan hệ bên trong dân
tộc. Quan hệ giữa các tộc người, các tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp; các cộng
đồng người Việt Nam sống ở trong nước và nước ngoài, các thành phần kinh tế,
các tổ chức chính trị, xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quá khứ và hiện
tại, giữa bên trong và bên ngoài, giữa truyền thống và hiện đại; phát huy được
sức mạnh của các vùng trong nước, sức mạnh tinh thần và vật chất để khai thác
tốt nhất những tiềm năng vốn có của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, sức
mạnh Việt Nam. Giai cấp công nhân là một bộ phận trong dân tộc Việt
Ba là,
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do nền kinh
tế nhiều thành phần nên cơ cấu xã hội cũng có nhiều giai cấp với những lợi ích
kinh tế khác nhau, làm việc trong các xí nghiệp khác nhau. Kinh tế thị trường
có những mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng
kinh tế cao. Nhưng bên cạnh đó còn nhiều khuyết tật về mặt xã hội như : Phá
sản, khủng hoảng, phân hóa giàu nghèo, lừa đảo, giả dối, áp bức, bất công, tàn
phá môi trường. Những khuyết tật này đòi hỏi phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước, phải sử dụng các công cụ quản lý : Pháp luật, tài chính, thông tin, kế hoạch.
và thực hiện nhất quát các chính sách phù họp với quá trình phát triển, gắn với
lợi ích để tạo ra được động lực phát triển xã hội. Có như vậy mới phát huy được
khả năng sáng tạo của giai cấp công nhân trong tình hình mới.
Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân có sự biến đổi lớn về cơ cấu
nghề nghiệp và số lượng. Do đòi hỏi của nền sản xuất hiện đại trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ, giai cấp công nhân thực sự là giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bốn là,
ở nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng nhiều nước
trên thế giới và khu vực đã nói nhiều đến nền kinh tế tri thức. Kinh tế tri
thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức có những ngành mới như công nghiệp thông
tin (công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm), các ngành công nghiệp dịch
vụ mới dựa vào công nghệ cao, và cũng có thể là những ngành truyền thống (nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học, công nghệ cao.
Trong các
nước OECD, kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP, công nhân trí thức chiếm trên
60% lực lượng lao động. Đại hội Đảng lần thứ X đã quyết định phải đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến khoảng năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành
nước công nghiệp. Trong thời gian hai thập kỷ ấy, kinh tế thế giới sẽ chuyển
mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách
giữa các nước giàu và nghèo càng gia tăng. Chúng ta không thể rập khuôn theo mô
hình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã đi. Cũng không nên hiểu công
nghiệp hóa chủ yếu là xây dựng công nghiệp, mà phải hiểu đây là sự chuyển nền
kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng hiệu quả thấp, dựa vào
phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế
có năng suất, chất lượng hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp,
dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất; vì vậy công nghiệp hóa phải đi
đôi với hiện đại hóa. Như vậy kinh tế tri thức là vận hội để đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để có thể làm được việc
đó, cần phải có đủ năng lực trí tuệ, có khả năng sáng tạo nắm bắt và làm chủ
các tri thức mới nhất của thời đại, phảI chủ động hội nhập quốc tế, phát huy
lợi thế so sánh của mình. Muốn vậy phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, xây dựng
đội ngũ người lao động nói chung, giai cấp công nhân nói riêng để phát triển
đất nước. Như vậy chúng ta đã tìm hiểu những nét cần chú ý cả về sự tác động
bên ngoài, của nội lực bên trong; cả tình hình phát triển trong cơ chế thị
trường hiện nay trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự chuyển dần
của thế giới sang nền kinh tế tri thức. Những vận hội và thách thức này đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân Việt
3. Những
nội dung quan trọng nhất để xây dựng giai cấp công nhân Việt
Từ những đặc điểm đã được nêu ra trên đây, gắn với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ :
Chuyển kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp
sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời. Điều đó có
nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện
đại hóa nông nghiệp, đồng thời với phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ
dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
ấy sẽ đặt nước ta trước một tình huống vừa thừa quá nhiều lao động giản đơn,
công nhân tạp vụ, vừa thiếu gay gắt công nhân có trình độ cao. Tình thế càng
khó khăn do chúng ta không thể chạy theo tốc độ tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Ngày nay phát triển được quan niệm là tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm
nghèo, giảm thất nghiệp và giảm bất bình đẳng trong xã hội. Chính vì vậy theo
chúng tôi có hai nội dung chính, đáng quan tâm nhất trong việc xây dựng giai cấp
công nhân Việt
Một
là, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại, phát triển
về số lượng và nâng cao chất lượng, có khả năng nắm bắt khoa học hiện đại để
xây dựng và phát triển đất nước.
Muốn vậy
phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Đẩy
mạnh giáo dục đào tạo để cung cấp đủ yêu cầu về “công nhân cổ vàng” và “công
nhân cổ xanh” cho quá trình công nghiệp hóa, nhất là công nhân cho những ngành
dệt, may, công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và xuất
khẩu lao động. Có phương sách thích hợp để tuyển chọn đúng nhân tài và đào tạo
“công nhân cổ trắng”. Do ngân sách Nhà nước giành cho giáo dục thấp nên người
dân phải tự trang trải chi phí giáo dục quá lớn so với thu nhập của họ. Con em
nông dân và công nhân nghèo thường không có điều kiện học lên cao, mặc dù có
nhiều em rất thông minh, có năng khiếu. Cần tổ chức những trường, lóp như các
trường bổ túc công nông trước đây ở các tỉnh, tuyển chọn những học sinh giỏi
con nhà nghèo được bao cấp ít nhất từ lớp 10 đến tốt nghiệp đại học. Sau khi
tốt nghiệp, Nhà nước bố trí vào những ngành kinh tế tri thức, trả lưong xứng
đáng để họ có thể trả nợ ngân hàng (nếu họ vay trong thời gian học). Đồng thời
có chính sách khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp cấp học bổng cho các học
sinh giỏi con nhà nghèo và sử dụng họ sau khi tốt nghiệp. Về lâu dài, lao động
nông nghiệp sẽ dần dần được chuyển sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng phải qua
đào tạo. Có thể nói đào tạo để phát triển giai cấp công nhân là một vấn đề vô
cùng quan trọng mà mỗi ngành mỗi cấp, mỗi cơ quan xí nghiệp cần có kế hoạch để
thực hiện tốt nhất. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển
giáo dục nhằm xây dựng thế hệ người Việt
Hai
là, giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, ý thức và vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để thực hiện tốt
các nhiệm vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập với khu vực
và thế giới.
Điều quan trọng là vừa kế
thừa được tinh hoa của nhân loại nhưng phải giữ gìn phát huy được bản sắc tốt
đẹp của dân tộc, phát huy được nội lực, sức mạnh Việt
Ba là,
chăm lo xây dựng và nâng cao đời sống cho công nhân, đảm bảo nguồn lực cơ bản
của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện, hiện đại hóa đất nước.
Công nhân là lực lượng tiên phong trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng, đời sống mọi mặt của công
nhân còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, nâng cao đời sống cho công nhân là yêu cầu
vừa cấp bách vừa lâu dài góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh. Trong
việc thực hiện nhiệm vụ này, hệ thống chính trị có trách nhiệm lớn, đồng thời
cần sự nỗ lực vươn lên của chính bản thân mỗi công nhân. Hiện nay, tổng số công nhân trực tiếp sản xuất
của nước ta có hơn 9,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 11% số dân và 21% lực lượng lao
động xã hội. Qua hơn 25 năm đổi mới, đội ngũ công nhân ngày càng tăng nhanh cả
về lượng lẫn chất, đang hoạt động ngày càng đa dạng trong nhiều lĩnh vực: sản
xuất kinh doanh, quản lý kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, giữ vị trí, vai
trò chủ lực xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nhưng hiện nay, đời sống người công nhân vẫn còn nhiều khó khăn:
thu nhập còn thấp, trình độ học vấn chưa cao, nhà ở vẫn đang là vấn đề còn
nhiều bức xúc, đời sống tinh thần nghèo nàn. Để giai cấp công nhân vươn lên
ngang tầm sứ mệnh lịch sử của mình, chúng ta tiếp tục cố gắng hơn nữa nhằm tạo
bước chuyển mới về chất đội ngũ giai cấp công nhân.
Để chăm lo xây dựng nâng cao đời sống công nhân cần thực hiện một số
chính sách đãi ngộ sau:
Thứ
nhất, nâng cao mức thu
nhập cho công nhân nhằm bảo đảm đời sống cho họ. Hiện nay, đa phần thu nhập của
công nhân chưa tương xứng với tần suất lao động và mức sống. Theo kết quả khảo
sát của Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Thứ
hai, khuyến khích người
lao động nâng cao tri thức qua việc tự đào tạo hoặc doanh nghiệp đào tạo hoặc
các cơ sở đào tạo khác hỗ trợ. Bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực theo hoạch
định, doanh nghiệp cần khuyến khích người lao động tự học tập theo loại hình
vừa học vừa làm (tại chức) bằng kinh phí riêng của họ, biểu dương hoặc thưởng
khi có thành quả học tập và đương nhiên cũng kèm theo cam kết của người lao
động phải phục vụ cho doanh nghiệp trong tương lai với thời gian hạn định.
Thứ
ba, các tổ chức, doanh
nghiệp coi trọng việc đầu tư nhà ở cho người lao động thông qua các hình thức
cho thuê hoặc bán trả góp với những chính sách ưu đãi nhằm giúp người lao động
được sớm "an cư, lạc nghiệp". Nhiều năm qua, gần 70% số công nhân và
người lao động phải sống tạm bợ trong các căn nhà tồi tàn, thiếu những tiện
nghi tối thiểu, nhất là tại các khu công nghiệp. Tình trạng đó là do chưa có
chính sách ưu đãi về đầu tư nhà ở cho công nhân, doanh nghiệp rất muốn đầu tư
lĩnh vực này nhưng vốn có hạn và ngại đầu tư vào vấn đề này sẽ kém hiệu quả... Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg, ngày 24-4-2009, về việc
"Ban hành một số cơ chế chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động
tại các khu công nghiệp thuê" và Quyết định số 96/2009/ QĐ-TTg, ngày
22-7-2009, về việc "Sửa đổi một số điều của Quyết định số 65/2009/ QĐ-TTg,
Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg và Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg, ngày
24-4-2009". Các tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện các quyết
định đó bảo đảm nhà ở cho công nhân và đạt mức phấn đấu đến năm 2015 có khoảng
50% số công nhân, người lao động tại các khu công nghiệp được giải quyết nhà ở.
Thứ
tư, khuyến
khích các doanh nghiệp ở tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển các
loại hình dịch vụ, các câu lạc bộ, cơ sở sinh hoạt văn hóa nhằm nâng cao đời
sống tinh thần cho người lao động. Mỗi doanh nghiệp, cụm doanh nghiệp phải có
các loại hình sinh hoạt cộng đồng. Để động viên phong trào, nên tổ chức các kỳ
thi nâng bậc, thợ giỏi, thể thao, văn nghệ, tìm hiểu về pháp luật, đời sống hôn
nhân và gia đình... Trong điều kiện hiện nay, để tổ chức thực hiện tốt đời sống
văn hóa tinh thần, nên kết hợp giữa động viên khuyến khích với quá trình xây
dựng những quy định có tính pháp lý. Nếu coi nhẹ việc đó thì việc nâng cao lĩnh
vực đời sống tinh thần của người lao động khó đi vào chiều sâu, kém tính khả
thi, hiệu quả chắc chắn không cao và không thể nói tới sự phát triển, tiến bộ
của doanh nghiệp một cách bền vững. Đó là điều chắc chắn.
bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa