UY TÍN, HÌNH ẢNH NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Nguyễn Chiến Thắng- Lớp CH TLH 2022
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng; trong đó, Người chú
trọng, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện,
phấn đấu về mọi mặt, thực hiện trách nhiệm nêu gương và có ý thức giữ gìn uy
tín, hình ảnh của mình. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện phát
triển mới đặt ra yêu cầu phải tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng đó của Người.
Nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết, tiến
tới thành lập đảng cách mạng chân chính, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
tiến hành lựa chọn những thanh niên ưu tú để tổ chức đào tạo, huấn luyện chính
trị (vào những năm 1925 - 1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc). Theo Người, chỉ
những người có đủ phẩm chất, trí tuệ thì mới có thể tiếp nhận được giá trị lý
luận, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, quan điểm, đường lối chính trị và
phương pháp cách mạng đúng đắn, trung thành, tận tụy truyền bá lý luận trong
phong trào quần chúng, xây dựng, phát triển tổ chức đảng và thực hiện được vai
trò lãnh đạo của Đảng. Tập hợp những cá nhân được giáo dục, huấn luyện bài bản
thì mới có thể hình thành tổ chức đảng cách mạng và sau khi có tổ chức, lại
phải không ngừng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất cần có của tổ chức
cũng như của mỗi người cán bộ, đảng viên để dẫn dắt phong trào cách mạng.
Với nhận thức khoa học về Đảng, trong tác phẩm
“Đường Cách mệnh” (năm 1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu yêu cầu
về Tư cách một người cách mệnh, gồm 23 điểm. Theo Người, mỗi người khi phấn đấu
theo những điểm căn cốt đó sẽ góp phần làm nên bản chất cách mạng của Đảng;
đồng thời, giúp cho Đảng có được đội ngũ cán bộ trung kiên, sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh vì cách mạng, dân tộc và nhân dân. Trong 23 điểm nêu trên, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc định hình rõ tiêu chuẩn cụ thể của người cán bộ, đảng viên. Theo
đó, người cách mạng, cán bộ, đảng viên tự mình phải cần kiệm, hòa mà không tư,
cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại (chịu
khó), hay nghiên cứu, xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo,
nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng tham muốn về vật
chất, bí mật; với từng người thì khoan thứ; với đoàn thể thì nghiêm, có lòng
bày vẽ cho người, trực mà không táo bạo, hay xem xét người; khi làm việc phải
xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể.
Những phẩm chất, tư cách và yêu cầu đó có ảnh
hưởng tích cực đối với sự lãnh đạo của Đảng, tỏ rõ uy tín, tấm gương của người
cách mạng, có sức cảm hóa, tập hợp, đoàn kết nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành chính quyền; vì thế, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu,
người cán bộ cũng được quần chúng tin cậy, che chở và bảo vệ. Nhờ tấm gương, uy
tín, đức hy sinh quên mình ấy mà hình ảnh cao đẹp của những người cộng sản có
sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo thành sức mạnh to lớn, góp phần đưa cách mạng đi đến
thành công.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập. Nhà nước mới thể hiện sự kết tinh tiêu biểu cho
tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, nhân văn, nhân đạo cao cả; nhiều nhân sĩ,
trí thức không phải đảng viên cộng sản được mời tham gia Chính phủ. Những người
trong chính quyền của chế độ cũ được đối xử tốt, nhiều người đã tham gia chính
quyền cách mạng; đặc biệt, cựu Hoàng đế Bảo Đại được mời làm Cố vấn tối cao của
Chính phủ. Nhà nước cũng thực hiện ngay chính sách “tín ngưỡng tự do”, tạo điều
kiện để các tôn giáo hành đạo; thực hiện các quyền dân chủ, chống nạn đói,
“giặc dốt”, bảo đảm ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đặc biệt,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, Chính phủ là công bộc của dân, phục vụ nhân dân,
việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh; tập trung thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, vừa chống xâm lược,
bảo vệ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.
Với sự nghiệp vẻ vang, mới mẻ và bộ máy chính
quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước và
chính quyền các cấp, vừa đặc biệt chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên, là những người trực tiếp điều hành và quản lý bộ máy nhà nước cách mạng
kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong những năm tháng đầu tiên
của chính quyền cách mạng, phần lớn cán bộ nắm bộ máy chính quyền và nhân viên
nhà nước đều tận tụy, nỗ lực khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng
trong thực tiễn thực thi quyền lực đã có một số cán bộ “ngông nghênh, cậy thế,
cậy quyền”, ức hiếp dân. Chính vì vậy, trên báo Cứu quốc số 65, ngày
12-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đề cập, phân tích vấn đề này trong bài viết
“Sao cho được lòng dân?”. Người thẳng thắn nêu rõ thực trạng là ở một số ủy ban
nhân dân “tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen”; “Những Ủy ban đó
không những không được dân yêu, còn bị dân khinh, dân ghét”. Người chỉ dẫn:
“muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền
lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.
Những hành vi không đúng mực của một số cán bộ
chính quyền đã ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, làm xấu đi hình ảnh của bộ máy
chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm các chức vụ, quyền hạn. Hiện tượng
lạm quyền, lộng quyền và các thói xấu khác ở một số cán bộ đã khiến cho niềm
tin của nhân dân bị suy giảm. Để kịp thời khắc phục tình trạng này, ngày
17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”; trong đó, chỉ ra những lầm lỗi rất nặng nề của một số người
trong bộ máy chính quyền, như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo, cử chỉ lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”. Những hành vi tiêu cực
đó “làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ”; do vậy,
Chính phủ phải kiên quyết khắc phục, loại bỏ những sai phạm, hình ảnh xấu đó
của một số cán bộ, đảng viên. Người nêu rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng
đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm
lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm
những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì
Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Uy tín và hình ảnh tốt đẹp của người cán bộ
phải xuất phát từ sự tận tụy, hết lòng, hết sức vì việc công, “dĩ công vi
thượng”, không tơ hào, vun vén cho lợi ích bản thân và gia đình mình, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không quan liêu, xa cách và hống hách
với dân, luôn khiêm nhường, giản dị trong cuộc sống. Muốn vậy, Đảng, chính
quyền phải ra sức giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ nghiêm kỷ luật, kỷ
cương, phép nước; đồng thời, mỗi người phải có ý thức tự rèn luyện, tự tu dưỡng
thường xuyên, liên tục. Ở đây, việc tu thân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở chính bản thân mình: “Gian nan rèn
luyện mới thành công”.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng
10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày toàn diện, sâu sắc về công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người nêu ra 12 điều về tư
cách của Đảng chân chính cách mạng và khẳng định:
“Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào”..
Đó là sự tổng kết sâu sắc của Người về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, làm sáng rõ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về công cuộc
xây dựng đảng cộng sản phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam;
trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh bản chất cách mạng, mục tiêu, nhiệm vụ, tính
tiên phong, các nguyên tắc hoạt động, đường lối, kỷ luật của Đảng và những yêu
cầu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những nội dung đó đều trực tiếp đặt ra
nhiệm vụ, bổn phận của đảng viên và cán bộ trước Đảng và dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ bản chất, lý tưởng của Đảng mà mỗi người đều phải ghi nhớ, thấm
nhuần để phấn đấu: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó
phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng”.
Về bổn phận, trách nhiệm và tư cách của đảng
viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, phải trọng lợi ích của Đảng hơn hết và chú
trọng rèn luyện đạo đức cách mạng theo các yêu cầu: Nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm, “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người”. Cán bộ, đảng viên phải giữ nghiêm kỷ luật; có ý thức
sửa chữa các khuyết điểm, sai lầm có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, như tham
lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi, địa phương và
các căn bệnh khác, như chủ quan, cẩu thả, hình thức, ích kỷ, xa quần chúng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một khi cán bộ,
đảng viên nào mắc vào các căn bệnh đó thì đều trực tiếp gây ảnh hưởng xấu đến
uy tín, sức mạnh và sự lãnh đạo của Đảng. “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng
xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách
không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó
là lý do vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục,
đào tạo, huấn luyện cán bộ; coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng. Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém. “Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Hình ảnh, uy tín của mỗi cán bộ, đảng viên góp phần làm nên uy
tín, thanh danh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, uy tín, hình ảnh của
đảng viên, cán bộ trở nên sâu đậm trong lòng dân chúng chính là bởi những hành
động, việc làm cao đẹp của họ. Người đã khái quát trách nhiệm, bổn phận của cán
bộ, đảng viên trên những phương diện chủ yếu: Suốt đời tranh đấu cho dân tộc,
cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, trước hết; hết sức giữ kỷ luật
và giữ bí mật của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố
gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa; phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần
chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng. Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải
có tính đảng mới làm được việc.
Trong bản Di chúc lịch sử (năm 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; phải thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân”.
PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
Nguồn: Tạp chí Cộng sản
Sưu tầm: Chiến Thắng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét