CHIẾN THẮNG “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”: KHẲNG ĐỊNH
CHÂN LÝ “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”
Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”
đã góp phần tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước của Nhân Dân ta, thể hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng
đắn của Đảng ta, của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Vào những ngày này cách đây 50 năm, để tạo thế
trên bàn đàm phán đế quốc Mỹ đã leo thang đưa không quân tập kích miền Bắc, với
tuyên bố “Đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”. Song đế quốc Mỹ đã bị thất bại
nặng nề, dân tộc Việt Nam lại tiếp tục ghi thêm vào trang sử hào hùng của dân
tộc một “Điện Biên Phủ trên không”.
“Điện Biên phủ trên không” là cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân lớn nhất từ sau đại chiến thế giới lần thứ
2. Trong cuộc tập kích này, đế quốc Mỹ đã huy động một lực lượng vũ khí trang
bị kỹ thuật lớn chưa từng có, gồm 193 máy bay chiến lược B52, chiếm gần 50%
tổng số máy bay B52 đang được sử dụng của toàn nước Mỹ; 1077 máy bay chiến thuật
bằng 31% tổng số máy bay chiến thuật của Mỹ ở Đông Nam Á, hơn 15000 tấn bom đạn
và hầu hết các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Trong đó mục tiêu chủ
yếu được Mỹ coi là điểm tựa phòng không cuối cùng phải tập trung tấn công phá
hoại là Hà Nội, Hải Phòng.
Chính Tổng thống Mỹ Ri-chớt
Ních-xơn (Richard Nixon) người trực tiếp phê chuẩn kế hoạch ném bom Hà Nội, Hải
Phòng đã tuyên bố: “Bằng cuộc tập kích đường không chiến lược này chúng ta sẽ
bắt Hà Nội phải quỳ gối”, sẽ đưa “Miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Còn
cộng sự của ông ta là cố vấn đặc biệt Hen-ri Kít-xinh-giơ (Henri
Kítxinhgiơ)cũng từng nói: “Nước Mỹ chúng ta mạnh đến mức trong vấn đề Việt Nam
không có từ thất bại”.
Với đường lối chiến tranh nhân dân đúng
đắn và nghệ thuật quân sự tài tình của Việt Nam, với tầm nhìn xa, trông rộng,
Đảng và Bác Hồ đã sớm chỉ đạo bộ đội Phòng không - Không quân chuẩn bị tinh
thần và lực lượng để đánh máy bay B.52 và các loại máy bay chiến thuật khác.
Ngày 19/7/1965, khi đến thăm Trung đoàn
pháo cao xạ 234, Bác Hồ đã căn dặn bộ đội Phòng không - Không quân: “Dù đế quốc
Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B.57, B.52 hay bê gì đi chăng nữa, từng
ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh mà đã đánh là nhất
định thắng”.
Thực hiện lời dạy của Bác và sự chỉ đạo
của Bộ Quốc phòng, ngay từ giữa năm 1966 Quân chủng Phòng không - Không quân đã
điều động Trung đoàn Tên lửa 238 vào tuyến lửa Vĩnh Linh tìm hiểu và đánh máy
bay B.52. Sau đó, Quân chủng tiếp tục đưa thêm các đơn vị tên lửa, không quân
cùng nhiều cán bộ vào Khu 4 để chi viện cho chiến dịch Trị-Thiên và tìm hiểu,
nghiên cứu cách đánh B.52. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo,
không sợ hy sinh gian khổ, cán bộ, chiến sỹ Phòng không - Không quân đã lập
công xuất sắc, ngày 17/ 9/ 1967 đã bắn rơi máy bay B.52 của Mỹ, tìm ra được
cách đánh hiệu quả bằng các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện có của ta. Từng
bước hoàn thiện tài liệu “Cách đánh B52”. Đến tháng 12/1972 toàn Quân chủng đã
hoàn thành phương án đánh máy bay B.52 bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và miền Bắc
XHCN. Ngày 14/12/11972, khi những người cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm Góc gửi
công hàm cho Chính phủ ta đòi sửa đổi và trì hoãn Hiệp định Pari, tuyên bố tiếp
tục mở cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, chúng ta đã hoàn tất mọi
công tác chuẩn bị, toàn Quân chủng đã sẵn sàng bước vào cuộc đọ sức mới.
Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân
và lực lượng phòng không ba thứ quân đã tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả miền
Bắc XHCN, trong đó Bộ đội Phòng không - Không quân là lực lượng nòng cốt đã
cùng với quân dân Hà Nội- Hải Phòng và một số địa phương trực tiếp đánh trả
cuộc tiến công đường không chưa từng có trong lịch sử này.
Tin vào sức mạnh của tiềm lực kinh tế -
quân sự, sức mạnh của bom đạn và vũ khí công nghệ cao, đế quốc Mỹ hy vọng chúng
ta sẽ bị tê liệt ngay từ trận không kích đầu tiên và chỉ sau vài ba ngày Hà Nội
sẽ “không còn một viên gạch lành”; “Hà Nội sẽ là một khu vực chết”, Hải Phòng
và một số địa phương khác của miền Bắc Việt Nam sẽ bị san phẳng “những ai may
mắn còn lại sau trận bom hủy diệt thì đó là kẻ sống sót”, và Hiệp đinh Pari sẽ
được ký kết theo yêu cầu của Mỹ. Ngay từ giây phút đầu tiên vào lúc 19giờ 15
phút ngày 18/12/1972 khi hàng trăm máy bay B.52 và các loại máy bay chiến thuật
được hệ thống nhiễu dày đặc bảo vệ hùng hổ lao vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng,
chúng đã bị các chiến sĩ ra đa mắt thần của chúng ta kịp thời phát hiện và
thông báo, báo động từ xa. Để rồi 30 phút sau, những loạt đạn tên lửa, cao xạ
đầu tiên đã bắn thẳng vào đội hình của chúng làm cho chúng phải đền tội với 6
máy bay bị bắn rơi, có 3 máy bay B.52 trong đó 2 chiếc rơi tại chỗ.
Bị thất bại ngay từ ngày đầu tiến hành
chiến dịch, nhưng những ngày sau đó đế quốc vẫn Mỹ tiếp tục huy động một số
lượng lớn máy bay B.52 vào các loại máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt liên
tục cả ban ngày và ban đêm đối với Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh lân cận.
Chúng tập trung trinh sát, đánh phá sân bay, trận địa tên lửa, cao xạ, ra đa;
đánh cả vào các vùng dân cư, đô thị, trường học, bệnh viện, đài phát thanh
.v.v. làm cho hàng vạn ngôi nhà bị tàn phá, hàng ngàn người vô tội bị chết,
nhiều cán bộ, chiến sĩ của chúng ta hy sinh. Bình quân mỗi ngày đêm chúng huy
động tới 60 đến 70 lần chiếc B.52; 300 đến 400 lần chiếc máy bay chiến thuật.
Trong đó đỉnh cao là đêm 26/12 chúng huy động tới 105 lần chiếc B.52 và hàng
trăm lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá Hà Nội.
Sau 12 ngày đêm chiến đấn oanh liệt
bằng tất cả lòng căm thù, sự dũng cảm; bằng ý chí và trí tuệ của Việt Nam, bộ
đội Phòng không-Không quân, quân dân Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và quân dân toàn
miền Bắc đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B.52, 5 chiếc F.111,
diệt và bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Riêng Quân chủng Phòng không - Không quân
bắn rơi 53 máy bay các loại, trong đó có 32 máy bay B.52. Chiến công này đã làm
sụp đổ hoàn toàn thần tượng bất khả chiến bại của “không lực Hoa Kỳ”, làm hoảng
loạn tinh thần của những người cầm quyền nước Mỹ. Đến nỗi Ních-sơn phải thốt
lên: “Nỗi sợ của chúng ta trong những ngày này không phải là do những làm sóng
phản đối phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là ở mức
độ tổn thất về máy bay B.52 quá nặng nề”. Để rồi, đúng 7 giờ ngày 30/12/1972
Tổng thống Mỹ Ních sơn đã phải chấp nhận thất bại, tuyên bố ngừng ném bom miền
Bắc Việt Nam, tiếp tục trở lại bàn đàm phán ở Hội nghị Pa ri.
“Điện Biên phủ trên không” là trận
quyết chiến có ý nghĩa chiến lược, là trận thử thách chưa từng có trong lịch
sử. Chúng ta đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện, buộc Mỹ phải chấp nhận mọi
điều khoản của Hiệp định Pari về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam, phải thực hiện tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, phải rút hết quân Mỹ về nước”.
Chiến thắng này đã góp phần tạo ra thế
và lực mới cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân
ta, để chúng ta thực hiện trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho Ngụy nhào” Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không” đã thể hiện
đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của Đảng ta, của chân lý “Không
có gì quý hơn độc lập tự do” và chế độ XHCN ưu việt của nhân dân ta. Đó là
chiến thắng của sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân tộc, là ý chí quyết
đánh, dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bằng tất cả sự mưu trí,
dũng cảm và tinh thần chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn. Đó là chiến thắng
của sự kế thừa và phát huy truyền thống quân sự Việt Nam, của đường lối chiến
tranh nhân dân và nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng trong thế trận Phòng
không nhân dân, trong tổ chức hiệp đồng chiến đấu tạo thành sức mạnh tổng hợp
cả trên không và mặt đất để chiến thắng kẻ thù.
Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”
còn có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và CNXH của nhân dân thế giới; là đòn đánh lịch sử, mở đường cho
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam; góp phần làm tăng thêm sức
mạnh và thế tiến công của phong trào cách mạng thế giới vào chủ nghĩa đế quốc;
đem lại lòng tin cho hàng trăm triệu người trên trái đất đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”
mãi mãi trở thành dấu son chói lọi trong truyền thống chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Chiến thắng đó đã trở thành truyền thống vẻ vang và mềm tin vững chắc
trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Phòng không -
Không quân.
50 năm nhìn lại, chúng ta càng thấy tự
hào về ý nghĩa lịch sử và thời đại của chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”.
Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thế kỷ XX,
là trang sử vẻ vang của truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước trong thời
đại mới.
Chiến thắng đó đã cho chúng ta một bài
học kinh nghiệm về sự tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ
kính yêu; bài học về tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện; bài học về
xây dựng và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta, của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; bài học về phát huy sức sáng
tạo, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến
thắng kẻ thù; đó là bài học của sự quả cảm, khao khát độc lập tự do, xả thân
chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét