Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ LỚN THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của Đảng qua mười ba kỳ đại hội.

Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác-Lênin trong thời đại ngày nay. Chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân xây dựng được các kỳ Đại hội Đảng tổng kết, đánh giá mang những nét đặc trưng cơ bản sau:

Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã nêu 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Đó là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”[1].

Đến Đại hội X (năm 2006), đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”[2].

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[3].

1) Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột.

Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài. Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v..

2) Xã hội “do nhân dân làm chủ”.

“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai trò chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân.

3) “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lô-gíc vận động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

4) “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của mình. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa là những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.

5) “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa, trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình độ phát triển người, của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là không bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao.

6) “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.

“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội hiện đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước trên thế giới đoàn kết lại (C.Mác); còn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển.

7) “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.

Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

8) “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.

Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã hội, Đảng ta quan niệm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa và phát triển. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai.

Từ thực tiễn, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đại hội XIII đã rút ra giá trị bổ sung, phát triển lý luận qua 05 bài học kinh nghiệm, 10 các mối quan hệ lớn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, điểm mới của bài học này so với các đại hội trước là xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nhấn mạnh xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; nhấn mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.

Bài học thứ hai về dân, điểm mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn mạnh lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, điểm mới của bài học này là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước đi phù hợp; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế.

Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ, điểm mới của bài học này là nhấn mạnh tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển (cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại).

Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ, "chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện”.

Các mối quan hệ lớn được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bao gồm:

- Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển.

- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Giữa nhà nước, thị trường và xã hội.

- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

- Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

- Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Việc phát hiện các mối quan hệ lớn được Đảng ta đặt ra từ Đại hội XI, khi tổng kết 25 năm đổi mới, tiếp đến là 30 năm và 35 năm đổi mới tại các đại hội sau đó. Đã có những nhận thức mới thông qua điều chỉnh cách biểu đạt từng mối quan hệ, như:

+ Quan hệ giữa đổi mới với ổn định và phát triển, trong lô-gic hợp lý và chặt chẽ của nó là quan hệ ổn định với đổi mới và phát triển, trong đó ổn định là tiền đề, đổi mới là phương thức, là con đường và phát triển (phát triển nhanh và bền vững) là mục đích, mục tiêu. Vấn đề quan trọng là phải xác lập sự ổn định tích cực, dựa trên phát triển kinh tế, làm cho nhân dân được thụ hưởng thành quả của đổi mới, để từ đó nhập cuộc và ủng hộ đổi mới. Đây là quá trình đi từ ổn định chính trị đến rộng hơn là ổn định chính trị - xã hội, từ phát triển kinh tế là trung tâm đến phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu thường xuyên.

+ Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu chính xác, thực tế hơn, là tuân theo các quy luật thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tuân theo các quy luật thị trường (giá trị, cạnh tranh, tận dụng đòn bẩy khoa học - công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và chủ động hội nhập…) không chỉ trong sự vận hành của nền kinh tế, mà còn cả sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa trong phát triển toàn diện kinh tế - xã hội dưới tác động của quy luật thị trường.

+ Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội được mở rộng tới bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, đáp ứng đúng yêu cầu phát triển bền vững với ba chiều cạnh tương tác nhau: Kinh tế - Xã hội - Môi trường theo khuyến cáo của Liên hợp quốc.

+ Qua thực tiễn, Đảng ta đã bổ sung và điều chỉnh hai mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa Nhà nước và thị trường mở rộng thành quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội (bao gồm cả chủ thể sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp, doanh nhân với chủ thể quản lý là Nhà nước và chủ thể tiêu dùng). Trong tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa, xuất khẩu, nhập khẩu, vấn đề là cần gắn với yêu cầu tăng thị phần của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới và nâng cao chất lượng hàng hóa để xác lập và giữ vững thương hiệu.

Đại hội XIII của Đảng phát hiện và bổ sung “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[4]. Có thể coi quan hệ này là quan hệ chính trị, liên quan trực tiếp tới xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền và nền dân chủ, thể hiện tư tưởng dân chủ hóa gắn chặt với pháp chế hóa, xây dựng xã hội trật tự, ổn định, nền nếp, an toàn, phòng tránh hỗn loạn, rối loạn, vô chính phủ, phá vỡ tập trung dân chủ; do đó, chú trọng bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là đòi hỏi của một xã hội văn minh trọng dân và trọng pháp luật với hiệu lực của nhà nước pháp quyền và nền dân chủ.

Một vấn đề nhận thức lý luận quan trọng khác cần được nhấn mạnh, đó là:

Từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh tới dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hệ thống chính trị thay cho cách hiểu trước đổi mới về “làm chủ tập thể” và “cơ chế làm chủ tập thể”. Thuật ngữ “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1989) và đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) thì đã bước đầu định hình lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải củng cố cơ sở pháp lý và tạo hành lang pháp luật cho kinh tế thị trường hoạt động; do đó, cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trên cơ sở đó, quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân theo chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm được xác định thành quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể trong xã hội: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ. Đây là quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể, đều hướng vào mục tiêu: Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng đi liền với bảo vệ. Đảng lãnh đạo việc thực hiện đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Nhà nước (với chức năng quản lý) thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp và chính sách để nhân dân thực thi vai trò, quyền và nghĩa vụ của người chủ để làm chủ. Mối quan hệ rường cột này được bảo đảm bởi nền tảng tư tưởng, nền tảng pháp lý, sức mạnh kinh tế, sức mạnh đạo đức, luật pháp và văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân vận.

Cần nhấn mạnh rằng, đây là quan hệ, thậm chí là quan hệ tổng quát, bao trùm, rộng lớn nhất trong chính trị và trong đời sống xã hội, khẳng định bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ do nhân dân làm chủ. Nó không phải là cơ chế làm chủ tập thể như cách hiểu trước đây. Cũng trong đổi mới, vào năm 1998, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành các nghị định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; trong cơ quan hành chính các cấp… Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Năm 2013, nước ta đã có Hiến pháp mới, kế thừa và phát triển mới các Hiến pháp trong lịch sử lập hiến của nước ta, từ năm 1946 tới nay. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 gồm các khoản 1, 2 và 3 bên cạnh việc khẳng định vai trò lãnh đạo, địa vị cầm quyền của Đảng một cách hợp hiến, hợp pháp, chính danh và chính đáng, đã xác định, với những chế định pháp lý rõ ràng về việc Đảng “chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Đó là sự ràng buộc pháp lý, thẩm quyền và trách nhiệm. Đó cũng là đòi hỏi cần thiết về một cơ chế bảo hiến, chế tài xử lý vi hiến mà Đảng - Nhà nước - xã hội tự ý thức, tự chịu trách nhiệm. Đó cũng là cơ sở pháp lý quy định về kiểm soát quyền lực, ngăn chặn sự vi phạm, tha hóa quyền lực có thể xảy ra.

Chúng ta cũng đã có Luật Trưng cầu ý dân. Vấn đề đặt ra là làm sao để luật đó đi vào cuộc sống, dựa trên ý chí, sức mạnh của nhân dân, xác lập cơ chế và điều kiện để nhân dân thực sự là chủ thể xã hội có quyền lực cao nhất tham gia vào hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực. Bởi lẽ, quyền lực mà nhân dân trao cho, nhân dân ủy thác thì nhân dân có quyền, đồng thời có nghĩa vụ, trách nhiệm kiểm soát quyền lực đó.

Những văn bản pháp luật nói trên đã hoàn chỉnh quyền của dân: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[5].

Trên đây là minh chứng về quá trình nhận thức lý luận của Đảng để định hình hệ thống lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội. Mười mối quan hệ được nêu lên “là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta”[6]. Đảng cũng hình dung, những mối quan hệ lớn đó “cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn”[7]. Đảng cũng lưu ý rằng, “phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện”[8].

Với chủ đích phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị phát tán nhiều tài liệu xuyên tạc, cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là “lạc đường”, đi ngược lại sự phát triển của nhân loại, v.v. Đó là luận điểm phi lý, không có cơ sở khoa học và thực tiễn, cần đẩy mạnh đấu tranh, bác bỏ.

Có thể khẳng định rằng, Đảng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn khách quan, khoa học, trên cơ sở “ý Đảng” - “lòng dân”, phù hợp với thực tế đất nước và xu thế của thời đại. Song, với các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại coi đó là nguy cơ đe dọa sự tồn tại của ý tưởng tôn sùng chủ nghĩa tư bản. Họ tập trung công kích, bài xích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng đó chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được; rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội! Chủ nghĩa xã hội là học thuyết “lạc đường”, đi ngược lại sự phát triển của nhân loại!, v.v. Tuy nhiên, thực tiễn đã minh chứng, dù chúng có dùng trăm phương ngàn kế chống phá, song con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khát vọng và tương lai của xã hội loài người, của dân tộc ta, bởi đó là quy luật tiến hóa của lịch sử; việc lựa chọn con đường phát triển đất nước của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, khoa học.

Về mặt lý luận

Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự kế thừa có chọn lọc tư tưởng tiến bộ nhân loại về sự phát triển của tự nhiên và xã hội loài người; sự tổng kết thực tiễn phong trào công nhân; nó chỉ rõ quy luật phát triển của xã hội loài người; vạch ra con đường, biện pháp đập tan sự thống trị của giai cấp tư sản; chỉ đường cho giai cấp vô sản đấu tranh tự giải phóng mình, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp - xã hội xã hội chủ nghĩa; trở thành kim chỉ nam chỉ đạo nhận thức và hành động của các đảng cộng sản, phong trào công nhân quốc tế.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển có quy luật, quá trình lịch sử - tự nhiên, sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp tới cao, mà nguyên nhân sâu xa quy định tiến trình phát triển ấy là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà đỉnh điểm của nó là mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa giữa hai nhân tố này, dẫn đến cuộc cách mạng xã hội thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Theo đó, sự vận động, phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đây là quy luật khách quan trong quá trình tiến hóa của xã hội loài người mà Mác và các cộng sự của ông đã phát kiến ra, chứ không phải là sự áp đặt chủ quan, phiến diện, một chiều. Cùng với quá trình đó, nhà nước phục vụ cho giai cấp thống trị trong chế độ tư bản chủ nghĩa được thay thế bằng nhà nước chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân, quản lý xã hội và phục vụ cho quyền lợi của mọi công dân theo mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội; con người được giải phóng một cách toàn diện, thủ tiêu mọi áp bức bóc lột.

Cần nói thêm rằng, về cơ bản, sự phát triển xã hội loài người là tiến trình lịch sử tự nhiên, tuần tự từ thấp lên cao. Song, tùy theo điều kiện lịch sử, hoàn cảnh của mỗi nước mà có thể bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Ví như, từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ tư bản tiến thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua thời kỳ quá độ lâu dài (như ở Việt Nam). Đó là cả một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi có thời gian, với một quá trình lao động sáng tạo để làm ra cơ sở vật chất cho đời sống xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, phải có chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, có bản lĩnh, quyết tâm chính trị cao, đường lối, chiến lược phát triển đúng đắn, dựa trên nền tảng tư tưởng vững chắc, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Về thực tiễn, chủ nghĩa xã hội là tương lai của nhân loại

Mặc dù đang trong giai đoạn hết sức khó khăn, song, chủ nghĩa xã hội vẫn là khát vọng, lý tưởng, mục tiêu tốt đẹp mà loài người đang hướng tới. Bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn kiểm nghiệm là giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng, an sinh, bình đẳng xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất, tiến tới không có người bóc lột người, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân được thụ hưởng thành tựu của quá trình xây dựng, phát triển.

Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học-công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Hiện nay, do tự điều chỉnh chủ nghĩa tư bản có sự phát triển nhất định, được các thế lực thù địch khuyếch trương, ra sức ca ngợi chế độ này là văn minh, “đỉnh cao” của xã hội loài người; giai cấp tư sản là giai cấp trung tâm của thời đại, có vai trò lịch sử trong tiến trình phát triển của nhân loại! Một số người nhìn vào điều kiện vật chất, trình độ phát triển của các nước tư bản nhờ thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và hàng chục năm hòa bình xây dựng, không bị tàn phá bởi chiến tranh mà đã vội vàng công kích chủ nghĩa xã hội, tung hô chủ nghĩa tư bản! Bề nổi thì vậy, song, xét về bản chất, thuộc tính cố hữu của chủ nghĩa tư bản là: bóc lột giá trị thặng dư, lợi nhuận, bất bình đẳng, phân biệt giàu nghèo, chiến tranh,… là những thứ cần kiên quyết đấu tranh, xóa bỏ.

Chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008-2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.

Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

Cùng với khủng hoảng kinh tế-tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái.

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.

Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át.

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới"[9].

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.

Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học.

Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội ngày càng được thể hiện sinh động, rõ nét trên đất nước Việt Nam. Cả về lý luận và thực tiễn đã minh chứng sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn chứ đâu phải theo một học thuyết “lạc đường” như các thế lực thù địch đang công kích. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng trong chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa./.

 



[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, t


r. 111

[2] Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68

[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70

[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39

[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39

[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr25-26.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét