Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, các nước phương Tây sử dụng học
thuyết chiến tranh mới nhằm lật đổ các quốc gia đi ngược lại lợi ích của họ -
Học thuyết phản khàng phi bạo lực. Học thuyết này được thực hiện dưới những cái
tên gọi rất mỹ miều, như “cách mạng màu”, “mùa xuân Arab”, hay “biểu tình hòa
bình” núp dưới các yêu sách “đòi dân sinh”, “xúc tiến dân chủ”, “cải cách”,
“bảo vệ nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “chống độc tài” hay là “chống gian lận
trong bầu cử”... và nó đã đạt được những thành công nhất định ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Ở Việt Nam, một số kẻ cơ hội chính trị, phản động đã vận dụng
học thuyết phản kháng phi bạo lực, đề ra chủ thuyết về "cách mạng
trắng", "cách mạng hoa sen"... với âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.
1. Nguồn gốc của học thuyết phản kháng phi bạo lực
Phản kháng phi bạo lực có nghĩa là không thiên về sử dụng bạo
lực để dành chính quyền.
Học thuyết này do Gene Sharp - một chuyên gia chính trị học
người Mỹ khởi xướng vào những năm 80 của thế kỷ 20 trong các tác phẩm của ông
viết về các phương pháp phản kháng phi bạo lực nhằm lật đổ các chế độ cầm quyền
được ông gọi là “chuyên chế”. Năm 1983, Gene Sharp thành lập Viện xã hội mang
tên Albert Einstein-một tổ chức phi chính phủ chuyên nghiên cứu cách thức sử
dụng các phương pháp đấu tranh phi bạo lực. Gene Sharp là tác giả hai chuyên
khảo nổi tiếng mang tựa đề "Từ chuyên chế đến dân chủ" và "198
phương pháp phản kháng phi bạo lực". Hai tác phẩm này là cơ sở lý luận và
thực tiễn của học thuyết phản kháng phi bạo lực, được dịch ra hàng chục thứ
tiếng và phổ biến rộng rãi ở nhiều nước. Chỉ tính riêng năm 2012 đã có 44 bản
dịch học thuyết phản kháng phi bạo lực của Gene Sharp sang tiếng Nga, tiếng
Thái, tiếng Arab, tiếng Myanmar... và được sử dụng làm “cẩm nang” của “các
chiến sĩ đấu tranh cho tự do” chống lại chế độ “chuyên chế” ở nhiều nước trên
thế giới. Các lực lượng đối lập ở nhiều nước, nhất là một số nước cộng hòa
trong không gian hậu Xô viết và các nước Arab từng trải qua các khóa huấn luyện
tại trung tâm này.
Theo
học thuyết phản kháng phi bạo lực của Gene Sharp, quần chúng nhân dân không chỉ
là người bỏ lá phiếu bầu nguyên thủ các quốc gia mà cũng có thể là lực lượng
nòng cốt trong các cuộc bạo loạn chính trị để lật đổ họ một khi không đáp ứng
được lợi ích của phương Tây. Khi đó, người dân được kích động, lôi kéo bằng rất
nhiều thủ đoạn tinh vi và trở thành các chiến binh thực sự trong cuộc chiến
tranh bạo loạn được tiến hành dưới khẩu hiệu “đòi dân chủ”, “vì tự do”, “đòi
nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “chống đói nghèo”...
Tuy
nhiên, theo Gene Sharp, hoạt động phản kháng phi bạo lực để lật đổ chính thể
của các quốc gia “chuyên chế” không chỉ bằng các biện pháp “biểu tình hòa bình”
mà trong trường hợp cần thiết phải kết hợp với hành động can thiệp quân sự từ
bên ngoài. Cuộc chiến tranh xâm lược do NATO tiến hành ở Libya năm 2011 là diễn
biến tiếp theo sau các cuộc “biểu tình hòa bình” trong “mùa xuân Arab” là thí
dụ điển hình nhất về luận điểm này của Gene Sharp. Cũng theo Gene Sharp, phản
kháng phi bạo lực không chỉ là sự phản kháng của người dân trong khuôn khổ pháp
luật như thiết lập đối thoại với chính quyền mà còn có thể xóa bỏ luật pháp
hiện hành bằng bạo lực. Trong số 198 phương pháp phản kháng phi bạo lực do Gene
Sharp đề xuất, có cả các phương pháp bạo lực như khủng bố, làm giả tài liệu,
phát tán tiền giả, cướp bóc, hãm hại, ám sát, thâm nhập vào những công trình
được bảo vệ để chiếm giữ các tòa nhà và văn phòng của chính phủ. Các cuộc “cách
mạng màu” hay phong trào “mùa xuân Arab” đã thể hiện rất rõ luận điểm này của
Gene Sharp.
2.
Các giai đoạn và lực lượng tiến hành phản kháng phi bạo lực
Theo
học thuyết phản kháng phi bạo lực của Gene Sharp, hoạt động lật đổ chính thể
của một quốc gia diễn ra theo 3 giai đoạn:
Giai
đoạn 1, phát hiện các điểm yếu trong bộ máy chính quyền sở tại như nạn tham
nhũng của các quan chức chính phủ, khó khăn kinh tế-xã hội, khoảng cách
giàu-nghèo quá lớn, nội bộ chính quyền bị chia rẽ, gian lận trong bầu cử. Từ đó
xác định khẩu hiệu cho các hoạt động “mềm” như mít tinh và biểu tình nhằm khoét
sâu thêm khiếm khuyết và tiêu cực trong xã hội và hệ thống chính trị, từ đó quy
kết bộ máy quản lý yếu kém của chính quyền và chứng tỏ chính thể hiện thời
“không có năng lực” và “không hợp lòng dân”... Để thực hiện nhiệm vụ trong giai
đoạn này sẽ sử dụng bộ máy truyền thông, trước hết là các mạng xã hội như
Facebook, Twitter... Lấy cảm hứng từ hiệu quả rất cao của các mạng xã hội trong
việc khơi mào các hoạt động phản kháng và đẩy tới bạo loạn chính trị, cựu Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đưa ra dự báo về “kỷ nguyên cách mạng màu từ mạng
internet”. Nhiệm vụ của giai đoạn này còn là để kiểm chứng khả năng phản ứng
của chính quyền, khả năng kích động dư luận xã hội và liên kết các nhóm phản
kháng đơn lẻ thành phong trào chống chính phủ trên quy mô lớn, thậm chí trong
phạm vi cả nước.
Giai
đoạn 2, tập trung làm băng hoại uy tín và thể diện của bộ máy quyền lực nhà
nước, thậm chí vận động các quan chức chính phủ đã thoái hóa biến chất đứng về
phía “người dân” để chống lại chính quyền.
Giai
đoạn 3, ra tối hậu thư yêu cầu người đứng đầu chính quyền từ chức, thậm chí gây
bạo loạn để lật đổ chính thể hiện hành và dựng lên chính quyền mới đáp ứng lợi
ích của các thế lực bên ngoài.
Trung
tâm điều phối toàn bộ hoạt động phản kháng phi bạo lực là đại sứ quán nước
ngoài ở nước sở tại và các cơ quan tình báo quốc tế. Tài trợ trực tiếp cho các
hoạt động này là hàng trăm tổ chức phi chính phủ của phương Tây hoạt động trên
khắp thế giới như “Ngôi nhà tự do” , “Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ”, “Viện quốc
gia nghiên cứu quốc tế của Đảng Cộng hòa”, “Viện quốc gia nghiên cứu quốc tế
của Đảng Dân chủ”, Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ. Những tổ chức này tài trợ
cho hàng nghìn tổ chức phi chính phủ được lập ra ở các quốc gia mục tiêu-nơi dự
kiến sẽ tiến hành “cách mạng màu” để lật đổ chính quyền sở tại. Những tổ chức
này hiện diện trước hết tại các quốc gia nằm ở những khu vực đang diễn ra cạnh
tranh địa-chính trị giữa các cường quốc như không gian hậu Xô viết, Bắc
Phi-Trung Đông, Mỹ Latin, Đông Nam Á, Nam Á.
Lực
lượng trực tiếp tiến hành hoạt động phi bạo lực là các lực lượng đối lập thường
được hình thành ở những quốc gia có chế độ chính trị đa nguyên đa đảng, hoặc
“đội quân thứ năm” được cài cắm trong hệ thống chính trị của nước sở tại. Công
cụ để tiến hành hoạt động phản kháng phi bạo lực là bộ máy truyền thông rộng
khắp, trước hết là mạng xã hội Facebook hay Twitter...
Nắm
rõ bản chất của học thuyết phản kháng phi bạo lực là vấn đề rất quan trọng để
giữ vững ổn định chính trị ở các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát
triển. Đối với công dân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần
nghiên cứu, nắm chắc thực chất của học thuyết phản kháng phi bạo lực để có
"sức đề kháng" trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình"
của các thế lực thù địch; cũng như góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy
thoái tư tưởng chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ; thực hiện bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa.
Nắm rõ bản chất của học thuyết phản kháng phi bạo lực là vấn đề rất quan trọng để giữ vững ổn định chính trị ở các quốc gia
Trả lờiXóa