Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VẺ CÁCH MẠNG THÁNG 8 VÀ QUỐC KHÁNH 2-9 CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 

Cứ mỗi lần đất nước ta tiến hành kỷ niệm các sự kiện lớn, y như rằng các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, hòng hạ thấp ý nghĩa của các sự kiện đó. Lần này cũng vậy, khi nước ta đang chuẩn bị kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, thì chiêu trò này lại tái diễn, nhưng với thủ đoạn nguy hiểm hơn, hòng phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta từ ngày có Đảng. Bởi vậy, nhận rõ thủ đoạn đó của chúng và kiên quyết lên án, bác bỏ là hết sức quan trọng, cần thiết.

Bằng nhiều thủ đoạn, qua các phương tiện thông tin, nhất là thông qua mạng in-tơ-nét, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tung ra các luận điệu xuyên tạc thâm độc để tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Để chứng minh cho những luận điệu đó, họ đã bóp méo, xuyên tạc sự thật lịch sử Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.

Đó là luận điệu phủ nhận công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với Cách mạng Việt Nam. Diễn trò “hạ bệ”, họ đưa ra luận điệu: “Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác  Lê-nin với học thuyết đấu tranh giai cấp đã gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm; rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác  Lê-nin làm phương tiện; đưa chủ nghĩa Mác  Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử,...”. Như chúng ta đều biết, sau khi thực dân Pháp xâm lược, áp đặt chế độ thuộc địa ở nước ta, một thế hệ những người con ưu tú nhất đã khai phá, thử nghiệm nhiều con đường cứu nước: Phan Bội Châu chọn con đường quân chủ lập hiến, theo mô hình của Nhật Bản; Phan Châu Trinh chọn con đường dân chủ tư sản, dựa vào chính người Pháp để cải cách xã hội,... rút cuộc đều thất bại. Nguyễn Ái Quốc không xác định trước một mô hình xã hội nào, mà cho rằng trước hết phải nghiên cứu, học hỏi hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người đã chọn con đường nghiên cứu tại các nước tư bản phát triển ở phương Tây, nơi sản sinh tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có nền khoa học - kỹ thuật phát triển cao. Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác  Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Người viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin. Người chỉ ra: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác  Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xác định Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, nhân dân ta đã giành được độc lập; giành thắng lợi trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thật lịch sử hiển nhiên, không thể bẻ cong, bóp méo. Thân thế, sự nghiệp, tài năng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được dân tộc Việt Nam trân trọng mà còn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Khóa họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Pa-ri (20-10 đến 20-11-1987) đã thông qua Nghị quyết 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, vào năm 1990”.

Như vậy, cái trò “hạ bệ” của những kẻ xuyên tạc chẳng lừa được ai! Song lố bịch hơn, họ nói: việc “du nhập” chủ nghĩa Mác  Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa cho dân tộc, vì chủ nghĩa Mác  Lê-nin là “tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc”. Theo họ “học thuyết Mác  Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, chỉ phù hợp với một chừng mực nào đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với nước ta,...”. Xuyên tạc bản chất của chủ nghĩa Mác, họ nói học thuyết này là xóa bỏ cá nhân: “Công hữu hóa tư liệu sản xuất chỉ xóa bỏ cá nhân trong kinh tế thì chuyên chính vô sản đã xóa bỏ cá nhân trong toàn bộ đời sống xã hội. Với chuyên chính vô sản, chỉ những người nắm quyền lãnh đạo đảng cộng sản mới có cá nhân. Khối nhân dân còn lại chỉ là một đám đông, một bầy lạc đà” (Phạm Đình Trọng - Bi kịch Việt Nam). Thâm độc hơn, gần đây có kẻ tung ra luận điệu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác  Lê-nin. Làm như đề cao Hồ Chí Minh, họ nói: bây giờ học thuyết Mác - Lê-nin đã lỗi thời, Đảng ta chỉ nên dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, v.v.

Thực tế lịch sử trong thế kỷ XX cho thấy: Cách mạng Tháng Mười Nga và các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường của chủ nghĩa Mác  Lê-nin đã mở ra một con đường mới - con đường xây dựng một xã hội hướng đến không còn chế độ người bóc lột người, không còn dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác. Lịch sử đã chỉ ra rằng, không có Cách mạng Tháng Mười Nga, không có Liên Xô, Đồng minh không thể chiến thắng chủ nghĩa phát-xít, không có Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam vào năm 1945. Đó là những sự kiện và tiến trình lịch sử không thể xuyên tạc. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa những người cộng sản phủ nhận những sai lầm, khuyết điểm của mình. Chẳng hạn như, xây dựng xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ với xóa kinh tế tư nhân, nền kinh tế thị trường, xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ của xã hội ở Liên Xô, Đông Âu và cả ở Việt Nam. Như V.I. Lê-nin đã từng nói: Chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều mà là “kim chỉ nam cho cuộc sống”. Nói cách khác, lý luận cách mạng đó cần phải được vận dụng và phát triển phù hợp với bối cảnh thời đại và dân tộc. Xa rời phương pháp luận này, tất yếu sẽ không tránh khỏi tổn thất, thậm chí là sụp đổ chế độ xã hội.

Trung thành và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đạt nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử: kinh tế ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá; đời sống nhân dân được bảo đảm và từng bước được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường; thế và lực của nước ta đã nâng lên, v.v. Việt Nam không chỉ là biểu tượng của “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” mà còn là tấm gương “xóa đói, giảm nghèo”, điểm sáng thu hút bạn bè đến đầu tư, thăm quan, du lịch. Việt Nam tham gia ngày càng mạnh mẽ vào đời sống chính trị thế giới; thiết lập quan hệ ngoại giao với 180 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 13 nước. Việt Nam là: thành viên chính thức của WTO; Ủy viên Hội đồng Nhân quyền tại Đại hội đồng Liên hợp quốc (khóa 68); Tổng Thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017; Chủ tịch Đại hội đồng Liên minh Nghị viện IPU-132, v.v. Vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào cánh tả trên thế giới vẫn phát triển mạnh mẽ; đặc biệt, Trung Quốc - nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là minh chứng sinh động cho sức sống bất diệt của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phản bác mạnh mẽ nhất những luận điệu xuyên tạc.

Một thủ đoạn thâm hiểm nữa mà các thế lực thù địch thường sử dụng như đã thành thông lệ, hằng năm cứ vào dịp nước ta kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, trên các trang mạng, họ lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc ý nghĩa của sự kiện quan trọng này. Chúng đưa ra luận điệu: Cách mạng Tháng Tám với việc lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền chỉ là sự “ăn may” khi phát-xít Nhật đầu hàng đồng minh, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh không có vai trò gì. Trắng trợn và lố bịch hơn, chúng còn rêu rao rằng, Cách mạng Tháng Tám đã đưa dân tộc vào “thảm họa” với hai cuộc chiến tranh (1945 - 1954 và 1954 - 1975), làm cho đất nước bị tàn phá, dân tộc bị phân ly và ngày nay vẫn nghèo nàn, đói khổ, v.v. Theo họ, giá như không đi theo con đường những người cộng sản vạch ra mà bằng cách xin “chính quốc” trao trả độc lập thì nước ta vẫn có độc lập, tránh được chiến tranh, đi theo con đường của các nước tư bản để tới phồn vinh (!) Một số kẻ còn lập luận rằng: từ sau cuộc đảo chính của Nhật (09-3-1945), Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng không còn là thuộc địa của Pháp, mà là thuộc địa của Nhật. Trong khi đó, phát-xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh cho tơi tả, phải chịu thất bại thảm hại và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Như vậy, ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực” cho nên cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi (?). Thực chất những quan điểm trên là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và thành quả cách mạng to lớn của nhân dân ta.

Thực tiễn minh chứng, ngay từ khi vừa ra đời, Đảng ta đã phát động, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931 và 1936-1939. Đó là những cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị tiền đề cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, tình hình thế giới và ở Đông Dương biến chuyển căn bản. Đảng ta nhận định và chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và phát động cao trào đấu tranh mới tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng ta xác định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”2. Ngày 09-3-1945, phát-xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền Pháp. Ngay tối hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị mở rộng và ngày 12-3-1945 ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định phát động cao trào chống Nhật, cứu nước trong toàn quốc, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cả dân tộc ta gấp rút chuẩn bị những công việc cuối cùng, tạo và đón lấy thời cơ để vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 14-8-1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Ở Việt Nam, bọn tay sai của chúng đã hoang mang đến cực độ. Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc, nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngay đêm 13-8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra Lệnh khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay trong ngày 16-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”3. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước đã nhất tề vùng lên, chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã thành công, lật đổ bộ máy thống trị phát-xít cùng triều đình phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng trên cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra con đường phát triển của dân tộc. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng là nhờ sự tài tình của Đảng và Bác Hồ trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh đạo cách mạng; sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, lực lượng,… nhất là, việc dự báo, chớp lấy thời cơ lịch sử “ngàn năm có một” để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên tự giải phóng mình, chứ không hề ngồi yên trông mong, chờ đợi một “khoảng trống quyền lực” hay một khoảng “chân không chính trị” nào; càng không bao giờ ngồi chờ “trao trả độc lập”.

Sự thật sinh động của những ngày tháng Tám năm 1945 lịch sử khẳng định rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công không phải là “sự ăn may” như ai đó từng hồ đồ tuyên bố. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét