Nhân quyền là một giá trị cao
cả của loài người nhưng đã bị các thế lực tư bản cường quyền xuyên tạc, lợi
dụng để chống phá các quốc gia độc lập và XHCN trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”.
Luật pháp Việt Nam đã khẳng
định mạnh mẽ, rõ ràng quyền con người, quyền công dân của công dân và Đảng, Nhà
nước ta đã thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền này trên thực tế. Điều đó tự nó
đã bác bỏ các luận điệu sai trái và âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch sử
dụng vấn đề nhân quyền để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta.
Nhân quyền là danh từ trong
sáng, dùng để chỉ một trong những giá trị của loài người. Nhưng nó bị làm vẩn
đục khi người ta lợi dụng để mưu đồ những lợi ích chính trị ích kỷ. Vấn đề nhân
quyền được đặt ra không giống nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Các
giai tầng xã hội, quốc gia dân tộc do lợi ích, địa vị khác nhau, có quan điểm
không giống nhau, thậm chí đối lập, trong vấn đề nhạy cảm này. Trong thời đại
ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề đặc biệt phức tạp, do các thế lực cường
quyền ra sức sử dụng nó làm công cụ thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Trở lại những thế kỷ của các
cuộc cách mạng tư sản điển hình (Anh, Mỹ, Pháp…), nhân quyền nổi lên như vấn đề
bức xúc của lịch sử. Giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ nhân quyền, dân quyền
để lôi kéo dân chúng làm cách mạng đánh đổ trật tự phong kiến. “Tuyên ngôn nhân
quyền” của cách mạng tư sản phù hợp với yêu cầu xóa bỏ chế độ nông nô và các
thể chế tương ứng để mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Trọng tâm nhân
quyền thời kỳ đó là quyền tự do cá nhân, trong đó tự do của cá nhân này bị giới
hạn bởi tự do của cá nhân khác.
Đó không phải tự do như nhau
cho tất cả mọi người. Đối với những nông nô vừa thoát khỏi sự trói buộc phong
kiến, quyền tự do thực tế nhất, khả thi nhất là tự do đi lang thang ra các đô
thị để kiếm việc làm, đáp ứng nhu cầu tuyển mộ nhân công của giới chủ tư bản.
Nhân quyền trong “Tuyên ngôn nhân quyền” không bao hàm quyền có điều kiện để
hưởng hạnh phúc mà chỉ giới hạn ở “quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuy nhiên, những
quyền con người chật hẹp, hạn chế, nặng hình thức đó vẫn thể hiện bước tiến
khổng lồ trong lịch sử đấu tranh giải phóng con người khỏi những áp bức xã hội.
Từ cách đây nhiều thế kỷ, vấn đề nhân quyền đã mang tính hai mặt. Cần nhận rõ
sự khác nhau giữa những yêu cầu nhân quyền thời Phục hưng và thời cách mạng tư
sản với những đòi hỏi “nhân quyền” (đối với các nước khác) của các nước phương
Tây hiện nay (thế kỷ 20, 21).
Tại sao chủ nghĩa tư bản đã
thống trị toàn cầu, đã chuyển thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, vẫn không từ
bỏ chiêu bài nhân quyền, trái lại sử dụng nhân quyền làm quốc sách hàng đầu?
Các cường quốc tư bản không chỉ sử dụng “nhân quyền” trong đối nội – tức trong
quản trị quốc gia, bảo đảm duy trì, củng cố trật tự tư bản, mà còn sử dụng
chiêu bài nhân quyền như một vũ khí rất lợi hại để chi phối tất cả các nước còn
lại, chủ yếu là các nước độc lập dân tộc, các nước XHCN, các nước đang phát
triển, chậm phát triển, bảo đảm những nước này không đứng ngoài “trật tự thế
giới” do họ làm chủ.
Sử dụng vũ khí nhân quyền là
một trong những trụ cột của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Sức ép “nhân quyền”,
“nô lệ viện trợ” (khái niệm của Nguyễn Văn Thiệu dùng để nói về viện trợ) cùng
với các sức ép khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, bạo lực quân sự… tạo thành
sức mạnh tổng hợp của chủ nghĩa thực dân mới. Mỹ và các cường quốc phương Tây,
dưới chiêu bài nhân quyền, đã ép buộc các chính phủ có xu hướng độc lập phải
chấp nhận quyền tự do hoạt động phi pháp của các lực lượng đối lập, để khi có
cơ hội, các lực lượng này sẽ trở thành ngòi nổ gây nên những cuộc “cách mạng
sắc màu” lật đổ các chính quyền không hợp “khẩu vị” hoặc đã hết tác dụng. Thậm
chí, Mỹ còn dùng vũ khí “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào nội trị của
đồng minh chí cốt trong NATO. Các sự kiện xảy ra năm 2016 ở Thổ Nhĩ Kỳ là minh
chứng.
Mũi nhọn của vũ khí “nhân quyền” tất nhiên nhằm vào các nước
XHCN. Thời chiến tranh lạnh, trong cuộc đối đầu toàn diện, ác liệt, không tiếng
súng giữa hai phe, các cường quốc phương Tây đã sử dụng tối đa vũ khí “nhân
quyền” để “diễn biến hòa bình” các nước XHCN và các nước dân tộc chủ nghĩa tiến
bộ. Cuộc chống phá về ý thức hệ, sử dụng chiêu bài nhân quyền đã khoét sâu
những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở các quốc gia XHCN, góp phần làm sụp đổ
hệ thống xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Tóm lại, sử dụng chiêu bài
“nhân quyền”, “dân chủ” là thủ đoạn quen thuộc rất hiểm độc trong chiến lược
“diễn biến hòa bình” của các thế lực cường quyền quốc tế để toàn trị thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, lợi dụng ưu thế của kẻ thắng thế, thấm nhuần bài học của
thời kỳ chiến tranh lạnh, Washington và Brussels càng đẩy mạnh những hoạt động
dùng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, kết hợp với trừng phạt kinh tế và
can thiệp quân sự, để làm thay đổi bản đồ địa chính trị thế giới có lợi cho họ.
Những sự kiện gần đây chứng tỏ, âm mưu của họ là: “nhân quyền” đi trước, bạo
lực theo sau, lật đổ là mục đích. Các thủ đoạn lợi dụng vấn đề “nhân quyền” phổ
biến của họ là:
Lấy danh nghĩa “can thiệp nhân
đạo” để chống phá nhà nước dân tộc Serbia, cuối cùng dùng lực lượng quân sự
hùng mạnh của NATO để xóa bỏ nền độc lập, dân chủ của nước này; lấy danh nghĩa
Tòa án quốc tế, bắt và giết chết Tổng thống Milosevich trong nhà tù.
Lấy danh nghĩa “chống khủng bố”
để tấn công quân sự Iraq, lật đổ chính quyền của Tổng thống Hútxêin, giết chết
ông, đưa Irắc vào cảnh hỗn loạn triền miên.
Mượn cớ “chống khủng bố” để đem
quân xâm lược Afghanistan.
Thúc đẩy hàng loạt các cuộc
“cách mạng sắc màu”: “cách mạng nhung” (Gruzia năm 2003), “cách mạng cam”
(Ukraina năm 2004), “cách mạng hoa tuylíp vàng” (Kyrgyzstan năm 2005)…
Gây ra cuộc nội chiến và chiến tranh ủy nhiệm
kéo dài hàng chục năm nhằm lật đổ chính quyền dân tộc ở Syria.
Cuộc “cách mạng sắc màu” và can
thiệp quân sự của các nước phương Tây đã lật đổ Tổng thống Gaddafi, giết chết
ông, đưa đất nước Libya vào thảm cảnh đói rét lầm than và nội chiến kéo dài.
Mỹ đã ra sức dùng vũ khí “nhân
quyền” để can thiệp chống phá độc lập tự do và cách mạng xã hội ở các nước Mỹ –
Latinh như Cuba, Venezuela, Chile…
Thế giới vừa kỷ niệm 10 năm sự kiện “Mùa xuân Ả Rập”. Mười
năm qua, “Mùa xuân Ả Rập” đã biến thành mùa đông ảm đạm, với những đau khổ
không kể xiết dành cho người dân các nước Ảrập, nhưng đem lại lợi nhuận khổng
lồ cho các tập đoàn sản xuất vũ khí. Các cuộc “cách mạng sắc màu”, “can thiệp
nhân đạo” – sản phẩm của “chủ nghĩa đế quốc tự do” – diễn ra rất bài bản. Trong
cuốn sách Học thuyết phản kháng phi bạo lực, tác giả Gene Sharp đã phân chia
các cuộc “cách mạng” đó thành ba giai đoạn: giai đoạn 1. Hình thành các hoạt
động mềm (mít tinh, biểu tình…); giai đoạn 2. Làm mất uy tín của chính quyền và
các quan chức; giai đoạn 3. Trực tiếp lật đổ chế độ.
Câu hỏi đặt ra là: hiện nay
Việt Nam và Mỹ đã trở thành “đối tác chiến lược” của nhau, vậy Việt Nam có còn
nằm trong tầm ngắm của “diễn biến hòa bình” nữa không? Câu trả lời là “có”. Nói
vậy, mà không ngại đối tác sẽ phật ý. Bởi, chính chính quyền Mỹ không giấu giếm
điều này. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nói thẳng: “Tôi tin tưởng rằng, việc
bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam
sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô
trước đây. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, việc lôi cuốn người Việt Nam vào mặt
trận rộng lớn của cuộc cải cách kinh tế và mặt trận rộng lớn của cải cách dân
chủ sẽ giúp tôn vinh sự hy sinh của những người đã chiến đấu vì tự do ở Việt
Nam”(1).
Quan hệ Việt – Mỹ được bình
thường hóa, đã phát triển đến mức như hiện nay không do ý muốn chủ quan của
chính quyền Mỹ. Quá trình đó diễn ra như một xu thế lịch sử, do lợi ích của đôi
bên đòi hỏi, thúc đẩy. Trước hết, do sự lớn mạnh không ngừng, không gì ngăn cản
nổi của nước Việt Nam XHCN; do nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
ngày càng đoàn kết; do Đảng và Nhà nước ta có đường lối, chính sách đối ngoại
đúng đắn, khôn khéo. Cả thế giới đều thấy rõ, Việt Nam vẫn hiên ngang tồn tại,
phát triển không ngừng, vượt qua mọi thách thức, bất chấp sự bao vây, cấm vận
kéo dài hàng chục năm của Mỹ, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
cực đoan; rằng, trong khi tất cả các quốc gia có chủ quyền, nhất là các nước có
đường lối phát triển độc lập tự chủ, đều không nằm ngoài “vùng phủ sóng” của
chiến lược “diễn biến hòa bình”, lẽ nào Mỹ lại “bỏ quên” một Việt Nam XHCN do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, là biểu tượng sáng ngời của phong trào giải phóng dân
tộc và cách mạng XHCN trong thế kỷ XX và thế kỷ XXI? Bốn mươi lăm năm qua, hiện
nay và từ nay về sau, vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích của hòa bình thế giới,
Việt Nam kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, rộng mở, hợp tác bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác
nhau, đồng thời kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc, bảo vệ
chính quyền nhân dân và chế độ XHCN.
Quyền công dân, quyền con người
đã được luật hóa rõ ràng, đầy đủ, được khẳng định đanh thép trong Hiến pháp
Việt Nam các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Điều 3, Hiến pháp năm 2013 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện”.
Các quyền con người, quyền công
dân được khẳng định trong Hiến pháp, pháp luật, được thể hiện sáng ngời trong
cuộc sống. Trước hết, đó là, từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám từ năm
1945 đến nay và từ nay về sau, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” (Tuyên ngôn Độc lập). Nước độc lập
vừa là hạnh phúc, vừa là tiền đề và điều kiện tiên quyết để nhân dân được hưởng
tự do, hạnh phúc. Theo đánh giá của Liên Hợp quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt
Nam tăng không ngừng và tăng nhanh nhất trong số các nước đang phát triển (năm
2020 tăng 4 bậc, xếp thứ 79 trên thế giới, đứng hàng đầu các nước châu Á), kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế tiến bộ không ngừng. Năm 2020, trong khi
hầu hết các nước trên thế giới, do đại dịch Covid-19, đều tăng trưởng âm, thì
Việt Nam giữ vững tăng trưởng dương, đứng đầu thế giới về mức tăng trưởng. Dư
luận quốc tế chỉ rõ rằng, thành công của Việt Nam trong chống dịch không phải
vì Việt Nam giàu có, có trang thiết bị y tế tiên tiến, mà vì ở Việt Nam có sự
đồng thuận cao giữa chính quyền với nhân dân (được xếp số một thế giới về sự
hài lòng của người dân đối với chính sách chống dịch của Chính phủ).
Có đầy đủ cơ sở để tin rằng:
khoảng một phần tư thế kỷ nữa, Việt Nam sẽ đứng trong khu vực các nước phát
triển. Những thành tựu kinh tế – xã hội trên đây chẳng phải đã mang ý nghĩa sâu
sắc nhất về quyền con người đó sao? Các quyền tự do chính trị ở Việt Nam mà
Hiến pháp đã quy định, được thực thi đầy đủ trong đời sống thực tế. Đó là quyền
bình đẳng trước pháp luật, quyền sống được pháp luật bảo hộ, quyền tự do tín
ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình, quyền bầu cử, ứng cử, quyền
khiếu nại, tố cáo… Về sự thực hiện tự do chính trị, Việt Nam không thua kém bất
cứ quốc gia dân chủ nào. Đương nhiên, luật pháp Việt Nam, nhân dân và Nhà nước
Việt Nam không cho phép bất kỳ cá nhân và tổ chức nào lợi dụng “nhân quyền”,
lợi dụng các quyền tự do dân chủ để vi phạm pháp luật, chống chính quyền nhân
dân, Tổ quốc và chế độ XHCN.
Chúng ta thực hiện quyền con
người không phải vì sức ép bên ngoài mà chính vì quyền con người là mục tiêu
cao cả, thuộc về bản chất của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đã nêu rõ: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt
sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2).