Thứ Hai, 4 tháng 7, 2022

BẢO ĐẢM “TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM”

 

Tự do báo chí là một biểu hiện cho tiến bộ, văn minh, là một yếu tố hết sức quan trọng đối với sự ổn định, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đảng, Nhà nước Việt Nam nhận thức rất rõ vai trò quan trọng, thiết yếu của báo chí cũng như yêu cầu của tự do báo chí với ý nghĩa như một quyền không thể thiếu của con người, một động lực phát triển không thể thiếu của đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) thường xuyên đưa ra những đánh giá sai lệch, thiếu khách quan và hoàn toàn không có cơ sở khi xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia "có ít tự do báo chí." Nội dung đánh giá của RSF chẳng những không có gì mới, vẫn lặp lại tư duy cũ mòn của những năm trước, mà còn cho thấy tổ chức này đã cố tình phớt lờ thực tế về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Cần phải khẳng định rằng Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời được triển khai thực hiện trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Việc đảm bảo mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhiều năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện thúc đẩy và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân về tự do ngôn luận. Hiến pháp năm 2013 nêu rõ “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…Việc thực hiện các quy định định này do pháp luật quy định". Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Đáng tiếc, RSF lại cố tình không biết đến những văn bản luật đã được đưa vào thực hiện từ nhiều năm ở Việt Nam.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam cũng được thể hiện rất rõ qua sự phát triển đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của báo chí Việt Nam. Hiện, Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh-truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Trong khi đó, sóng của các cơ quan truyền thông quốc tế lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam… Những năm qua, báo chí ở Việt Nam đã thể hiện được quyền tự do ngôn luận và đều được quyền thông tin. Báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc; luôn tích cực đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực trong xã hội, góp tiếng nói quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời là cầu nối quan trọng với bạn bè quốc tế. RSF cũng đã cố tình bỏ qua thực tế rằng Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất thế giới với hơn 68 triệu người sử dụng Internet (chiếm 70% dân số).

Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống sinh hoạt ở Việt Nam, cho phép người dân được tiếp cận thông tin và bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình. Ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Việc thực hiện quyền tự do Internet và mạng xã hội luôn được đặt trong khung khổ pháp luật, qua đó mới bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng mạng xã hội để vi phạm pháp luật Việt Nam nhằm kích động, chia rẽ xã hội, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp vào nước ta.

Rõ ràng, bức tranh hiện thực về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam là thực tế khách quan không ai có thể phủ nhận được. RSF đã cố tình phủ nhận những nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm và tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin của người dân, đưa ra những đánh giá sai sự thật và hết sức phi lý. Những luận điệu của RSF cho thấy tổ chức này đang dùng thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam với dụng ý xấu. Chính RSF đang đi ngược lại tôn chỉ của người làm báo là tôn trọng và không được phép xuyên tạc, bóp méo sự thật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét