TỪ QUAN ĐIỂM CỦA V. I. LÊ-NIN VỀ CHỦ NGHĨA
CƠ HỘI ĐẾN CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chủ nghĩa cơ hội thời nào cũng có, nhưng thường xuất hiện
công khai và phát triển vào lúc cách mạng gặp khó khăn và khi các quan hệ xã
hội có những biến đổi. Gần đây, trong các văn kiện của Đảng nhắc nhiều tới
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, tư tưởng cơ hội, các phần tử cơ hội
chính trị... Điều đó chứng tỏ đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội ở nước ta
hiện nay là nhiệm vụ rất quan trọng. Để góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ
đó, việc nghiên cứu quan điểm của V.I. Lê-nin về chủ nghĩa cơ hội là rất cần
thiết.
V. I. Lê-Nin là lãnh tụ của giai cấp
công nhân Nga và phong trào cộng sản - công nhân quốc tế. Ngay từ những năm đầu
giữ vai trò lãnh tụ, ông đã đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩa dân túy, phái
mác-xít hợp pháp và chủ nghĩa cơ hội với đủ màu sắc đang nảy sinh ở nước Nga
khi đó. Trong các tác phẩm của mình, V.I. Lê-nin chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến
sự xuất hiện của chủ nghĩa cơ hội và bản chất, đặc điểm của nó.
Về nguyên nhân, theo V.I. Lê-nin, sự xuất hiện chủ nghĩa cơ hội ở Nga
trong những năm đầu thế kỷ XX có ba nguyên nhân chính sau:
Một là, bắt nguồn từ ảnh hưởng của khuynh hướng tư tưởng tiểu tư
sản trong phong trào quần chúng công nhân. Do giai cấp công nhân sống “sát
nách” với giai cấp tiểu tư sản, trong khi giai cấp này lại có sự phân hóa nên
một bộ phận trong số đó nhập vào giai cấp công nhân. Họ mang theo vào phong
trào công nhân mọi thứ quan niệm, như “mê tín, thiển cận, hẹp hòi, lệch lạc có
tính chất tiểu tư sản”(1). Bên cạnh đó, nước Nga thời bấy giờ “là nước tiểu tư
sản nhất trong tất cả các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế cho
nên khi chủ nghĩa Mác vừa mới trở thành một trào lưu xã hội có tính chất quần
chúng ở Nga, thì trong trào lưu đó xuất hiện ngay một thứ chủ nghĩa cơ
hội tiểu tư sản của những phần tử trí thức, ban đầu dưới hình thức “chủ nghĩa
kinh tế” và “chủ nghĩa Mác hợp pháp” (1895 - 1902), sau đó dưới hình thức chủ
nghĩa men-sê-vích (1903 - 1908)”(2). V.I. Lê-nin khẳng định, đây là điều tất
yếu khách quan: “Phong trào quần chúng của công nhân có sinh
ra một cánh tiểu tư sản và cơ hội chủ nghĩa trong phong trào
đó thì đấy không phải là điều ngẫu nhiên, mà là một hiện tượng tất nhiên”(3).
Hai là, sự phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân, tình trạng
“tư sản hóa giai cấp công nhân” và sự xuất hiện “tầng lớp công nhân quý tộc”.
Có sự phân hóa đó là do giai cấp tư sản mua chuộc được tầng lớp trên của giai
cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận. Một bộ phận công nhân có trình độ
chuyên môn, tay nghề cao, có uy tín trong tập thể công nhân được giai cấp tư
sản sử dụng, giúp giai cấp tư sản trong tổ chức, quản lý sản xuất, giám sát kỹ
thuật. Sau đó, họ bị giai cấp tư sản mua chuộc, chi phối bằng lợi ích vật
chất. Từ đó, họ biến chất, trở thành tay sai cho giai cấp tư sản. Tầng lớp công
nhân quý tộc này đã tác động đến phong trào công nhân, làm cho chủ nghĩa cơ
hội phát triển trong phong trào công nhân.
Ba là, một bộ phận giai cấp công nhân hiểu chủ nghĩa Mác một cách
không có hệ thống, chưa thấm nhuần thế giới quan mác-xít, chưa đoạn tuyệt với
thế giới quan tư sản nói chung và thế giới quan dân chủ - tư sản nói riêng. Và
do vậy, họ luôn “nhảy từ một cực đoan bất lực này sang một cực đoan bất lực
khác. Khi thì họ giải thích rằng mọi việc đều do những kẻ có ác ý “xúc xiểm”
giai cấp này chống lại giai cấp kia, khi thì họ tự an ủi bằng cách nói rằng
đảng công nhân là một “đảng cải lương có tính chất hòa bình”(4). Điều đó cho
thấy, những người theo chủ nghĩa cơ hội thường có biểu hiện lập trường tư tưởng
không rõ ràng, còn bấp bênh, chưa hiểu bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin;
thái độ của họ lúc thế này, lúc thế khác và nguy hiểm hơn là họ sẵn sàng thay
đổi giọng điệu, thái độ, lập trường để đạt được mục đích và vì lợi ích của
mình. Vì lợi ích của phe nhóm, dòng tộc và cá nhân, những kẻ cơ hội chủ nghĩa
sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với các tầng lớp, giai cấp phi vô sản, từ bỏ
con đường đấu tranh cách mạng, phản bội lại mục tiêu, lý tưởng cộng sản của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Về bản chất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không
thể không thấy rằng khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng
qua chỉ là một hình loại mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi. Và
nếu xét người, không căn cứ vào bộ áo hào nhoáng họ tự khoác cho họ hoặc vào
cái tên khá kêu họ tự đặt cho họ, mà căn cứ vào cách họ hành động, vào những tư
tưởng mà họ thực tế truyền bá, thì thấy rõ rằng “tự do phê bình” là tự do của
khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong đảng dân chủ - xã hội”(5). Khẩu hiệu “tự do
phê bình” mà phái kinh tế giương lên là hình thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc
tế; khuynh hướng này hình thành vào nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh vào
đầu thế kỷ XX trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là sự phản ánh
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Vấn đề nguy
hiểm của chủ nghĩa cơ hội là khoác áo chủ nghĩa Mác, không công khai phủ nhận
chủ nghĩa Mác nhưng xuyên tạc chủ nghĩa Mác, vứt bỏ “linh hồn” cũng như những
nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư
sản. Theo V.I. Lê-nin, thực chất tư tưởng của “tự do phê bình” hoàn toàn chỉ là
sự cóp nhặt sách báo tư sản rồi làm thành “học thuyết” của mình; cái gọi là “tự
do phê bình” chẳng qua chỉ “là tự do biến đảng dân chủ - xã hội thành một đảng
dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư
sản vào trong chủ nghĩa xã hội”(6). Điều đó cho thấy, bản chất của chủ nghĩa cơ
hội là mơ hồ về tư tưởng chính trị, không nhất quán về lập trường tư tưởng,
làm lu mờ tính giai cấp, tính đảng và tính nguyên tắc trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Do bản chất của mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng
tránh đặt vấn đề một cách rõ ràng và dứt khoát; bao giờ cũng tìm con đường
trung dung, quanh co, uốn khúc như “con rắn nước” giữa hai quan điểm đối chọi
nhau, tìm cách “thỏa thuận” với cả quan điểm này và quan điểm kia... Nói cách
khác, những người theo chủ nghĩa cơ hội thường có lập trường tư tưởng không
vững vàng, thiếu kiên định, bản lĩnh chính trị yếu kém, tư tưởng “chiết
trung”, né tránh trước những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra của đất
nước.
Về đặc điểm, V.I. Lê-nin cho rằng, chủ nghĩa cơ hội quốc tế được biểu
hiện dưới nhiều màu sắc, nhiều dạng, nhiều loại khác nhau, tùy theo đặc điểm
của từng quốc gia dân tộc, nhưng chúng giống hệt nhau về nội dung, bản chất
chính trị - xã hội, đó là: tính không kiên quyết, tính vô nguyên tắc, tính
không rõ ràng, lờ mờ, quanh co. Sở dĩ có hiện tượng những người mác-xít, những
người hoạt động trong đảng công nhân rơi vào chủ nghĩa cơ hội là do họ có sự do
dự, thiếu kiên định, dao động và lừng chừng về chính trị. Chính vì vậy, họ “dễ
dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ
dàng như thế”(7).
Nghiên cứu quan điểm của V.I.
Lê-nin về chủ nghĩa cơ hội cho chúng ta thấy, đây là trào lưu tư tưởng đối lập
với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là tàn dư của tư tưởng tư sản, tiểu tư sản trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó sẵn sàng hy sinh lợi ích cơ
bản, lâu dài của giai cấp công nhân, của phong trào công nhân vì lợi ích trước
mắt của một bộ phận. Thực chất, đó là sự đầu hàng trước những trào lưu tư tưởng
tư sản và là sự phản bội chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa cơ hội tồn tại
dưới nhiều hình thức, như về lý luận, đó là sự chiết trung, ngụy
biện, sẵn sàng thay đổi quan điểm, tư tưởng cơ bản để trục lợi; về kinh
tế, đó là sự thực dụng, sẵn sàng đánh đổi cả phong trào vì lợi ích kinh
tế trước mắt của một nhóm người; về hành động, đó là sự phiêu
lưu, lúc tả khuynh, lúc hữu khuynh, lúc thì nóng vội, lúc thì chủ quan, sẵn
sàng từ bỏ mục tiêu cách mạng, thủ đoạn thì tinh vi, lắt léo, dễ dàng thỏa
hiệp với mọi loại trào lưu khi có lợi. Do vậy, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang tạm
thời lâm vào khủng hoảng và thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, các thế lực phản động đang tìm mọi cách
chống phá cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Đây là thời cơ cho
chủ nghĩa cơ hội nổi dậy chống phá phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
chống phá các đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta, về nguyên tắc, không có
đất cho chủ nghĩa cơ hội phát sinh, phát triển, và chủ nghĩa cơ hội với những
biểu hiện đầy đủ cũng chưa rõ nét, nhưng những phần tử cơ hội không phải là
không có, mà đã và đang có mặt ở nơi này, nơi khác, trong các ngành, các cấp,
các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, chủ nghĩa cơ hội ngày nay khác với chủ
nghĩa cơ hội “cổ điển” ở chỗ, nó không còn đơn thuần là biểu hiện của mâu
thuẫn giữa hai luồng tư tưởng, mà đã hóa thân thành “muôn hình vạn trạng”, hòa
vào xã hội như một “căn bệnh” quái ác, với mức độ khôn khéo hơn, ngụy trang
kỹ lưỡng hơn.
Hiện nay, do thể chế nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa có sự phát triển
đồng bộ và hiện đại, còn nảy sinh nhiều mặt trái; đồng thời, do những yếu
kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình lãnh đạo và tổ chức thực
hiện sự nghiệp đổi mới, cho nên không ít cán bộ, đảng viên lập trường không
kiên định đã “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” thành các phần tử cơ hội, và
nhiều phần tử cơ hội tìm cách chui vào hàng ngũ của Đảng nhằm trục lợi.
Biểu hiện của những kẻ cơ hội trong
những năm qua ở nước ta là bất chấp lợi ích của Đảng, của nhân dân, tìm cách
vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc. Họ say mê quyền lực, địa vị,
coi đó như một thứ có thể mua bán, tiến thân, từ đó mà khéo luồn lách, nịnh bợ
để lấy lòng cấp trên, để tranh thủ lá phiếu trước mỗi đợt bầu cử. Họ kéo bè,
kết cánh, “móc ngoặc” trên dưới, trong ngoài, tìm mọi cách để “chạy chức”,
“chạy quyền”, “chạy danh”, “chạy lợi”, “chạy chỗ”, “chạy bằng cấp”, “chạy tuổi”
và khi bị phát hiện thì tiếp tục “chạy tội”. Họ lợi dụng việc tuyển chọn, đánh
giá, luân chuyển cán bộ để trục lợi cá nhân, tìm mọi cách đưa người “cùng cánh”
vào nắm những chức vụ trong cơ quan, mà không chịu chọn những người có đủ đức,
tài.
Những biểu hiện nêu trên của các
phần tử cơ hội đang ảnh hưởng đến nhiều cán bộ, đảng viên, mà nếu không
được ngăn chặn, sẽ làm cho họ bị suy giảm dần về bản chất cách mạng, xa
rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không còn khả
năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không còn giữ
được vai trò là chiến sĩ tiên phong của Đảng, cuối cùng sẽ dẫn đến mất Đảng,
mất chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã dày công xây dựng. Vì vậy, chúng
ta phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội. Đây không những là vấn đề mang
tính quy luật trong sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
mà còn là yêu cầu, nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách của các đảng cộng sản và
phong trào công nhân thế giới nói chung, của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách
mạng Việt Nam nói riêng.
Để đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội và
những phần tử cơ hội có hiệu quả, cần có sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân cũng như các cấp, các ngành. Theo đó, cần thực hiện quyết liệt,
đồng bộ và toàn diện các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế,
chính sách, pháp luật với quyết tâm cao, nhất là của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Cụ thể, cần
thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa theo hướng đồng bộ và hiện đại. Đây là giải pháp cơ bản và lâu dài
nhằm xóa bỏ cơ sở hình thành chủ nghĩa cơ hội cũng như các phần tử cơ
hội trong kinh tế và chính trị. Thực hiện tốt mục tiêu: “Đến năm 2020,
phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế”(8). Trước hết, cần bảo đảm tính đồng bộ giữa
các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các
loại thị trường, giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, xã hội; gắn kết
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa phát
triển văn hóa với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần
hạn chế những mặt tiêu cực, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường chưa hiện
đại, chưa đồng bộ - môi trường thuận lợi cho các phần tử cơ hội lợi dụng và
phát triển.
Hai là, tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin
trong thời kỳ mới, đồng thời tăng cường học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sức sống của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin là ở chỗ, nó phải luôn được bổ sung, phát triển trên cơ sở những thành
tựu mới của khoa học và thực tiễn cuộc sống. Việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lê-nin trên cơ sở khoa học cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện
nay là tất yếu khách quan và điều này góp phần hạn chế sự lạc hậu, yếu kém về
mặt lý luận của cán bộ, đảng viên, không còn điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội
và các phần tử cơ hội lợi dụng để xuyên tạc, phê phán, tầm thường hóa chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Đặc biệt, việc tăng cường học tập và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin sẽ làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn có được phương
pháp tư duy khoa học và phương pháp tư duy biện chứng, tránh rơi vào lối tư
duy chiết trung, ngụy biện của chủ nghĩa cơ hội.
Ba là, thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đây là một trong
những giải pháp chủ yếu trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và các phần tử
cơ hội ở nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần chủ động
phát hiện, kiên quyết, kiên trì đấu tranh và xử lý bằng hình thức phù hợp đối
với các phần tử cơ hội, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; đồng thời, “Kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối
sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”(9).
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay,
cần làm tốt việc sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết thanh lọc những
kẻ cơ hội, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách, không đủ
tiêu chuẩn, như V.I. Lê-nin từng nhắc nhở: “Điều rất cần thiết hiện nay là, về
mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi
các đảng công nhân”(10), dù cho bản thân Đảng có “phải tạm thời chịu đau đớn
kịch liệt đi nữa”(11).
Bốn là, tích cực và chủ động đấu tranh chống những tư tưởng cơ
hội, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. V.I. Lê-nin cũng đã cho chúng ta một
tấm gương mẫu mực về sự phê phán, đấu tranh có tính nguyên tắc chống chủ nghĩa
cơ hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta cần làm tốt công tác tư tưởng, lý
luận, chủ động tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục những người nhẹ
dạ, cả tin, bị các phần tử cơ hội, thù địch mua chuộc, lôi kéo; đồng thời
phân hóa, cô lập những kẻ cầm đầu, cực đoan, có thái độ chống đối trong số
các phần tử đó. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa các lực lượng nhằm phát hiện kịp thời và đấu tranh hiệu quả với hoạt động
phá hoại của các phần tử cơ hội. Chú trọng xây dựng và phát huy tốt vai trò của
lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ
ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, cần quản lý
chặt chẽ các phương tiện thông tin - truyền thông, nhất là in-tơ-nét và mạng xã
hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ
hội phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, kích động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
-------------------------------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn
tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t. 25, tr. 118, 142
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Sđd, t. 25, tr. 155
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Sđd, t. 20, tr. 78
(5), (6) V. I. Lê-nin: Toàn
tập, Sđd, t. 6, tr. 10, 11
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Sđd, t. 6, tr. 239
(8) Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,
tr. 104
(9) Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 202
(10) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Sđd, t. 26, tr. 327
(11) V.I. Lê-nin: Toàn tập,
Sđd, t. 27, tr. 154
Lê Thị Thanh Hà - PGS, TS, Viện Triết học, Học viện CTQG Hồ
Chí Minh
Theo Tạp chí Cộng sản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét