THUYẾT TAM
QUYỀN PHÂN LẬP KHÔNG PHÙ HỢP
VỚI THỰC TIỄN
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
Duychinh.com
Trước thềm cuộc bầu cử Quốc hội khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, lợi dụng sự kiện này một số người đã cổ súy cho việc thực hiện cái gọi là “Tam quyền phân lập”, đòi tách biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để “kiềm chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này theo mô hình nhà nước tư sản... Đây là những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở nước ta. Do đó, nhận thức thực chất của thuyết “Tam quyền phận lập” và đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng học thuyết này chống phá nước ta là vấn đề cấp bách hiện nay.
Chúng ta có cơ sở khẳng định rằng Tam quyền phân lập là không
phù hợp với thực tiễn chính trị ở Việt
Lịch sử lập hiến của Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp
(1946, 1959, 1980, 1992, 2013) nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn
vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần
đầu tiên có những ý kiến đề nghị: “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ
chức quyền lực nhà nước”. Trên thực tế, ở Việt Nam không theo mô hình nhà nước
tư sản, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn luôn kiên định quan điểm về
việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này xuất phát từ những lý do
sau:
Thứ nhất, tư duy cơ giới
- nền tảng của thuyết tam quyền phân lập không phù hợp với truyền thống văn hóa
và tâm lý dân tộc Việt
Suốt chiều dài dựng nước và giữ nước, lịch
sử đã chứng minh: Việt
Có thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, thống nhất vì mục
tiêu chung đã trở thành giá trị văn hóa, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của
dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, phương pháp tư duy cơ giới- nhìn nhận mọi việc theo
hướng tách biệt, không có mối liên hệ với nhau, “kiềm chế- đối trọng tuyệt đối”
của thuyết tam quyền phân lập đã không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm
lý của dân tộc ta, không được dân tộc ta chấp nhận.
Thứ hai, khẳng định:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là
phù hợp với thể chế chính trị Việt
Kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã
khẳng định nhất quán quan điểm: “Nhà nước Việt
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng XHCN.
Trong đó tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên
một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói, nguyên tắc phân công, phối hợp
và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước
pháp quyền XHCN: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân
dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho
Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng nhân
dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và cơ quan
tư pháp. Theo điều 84 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 và điều 69
của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, nhân dân chỉ giao cho Quốc
hội 3 nhóm quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ
về giám sát tối cao; quyền hạn và nghĩa vụ về quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước.
Thực tiễn ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền
lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân
dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là
thống nhât trước tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính
trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính
trị chung là xây dựng một nhà nước Việt
Như vậy, mặc dù nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền
phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước nhưng Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam (2013) đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập”, bằng việc quy định
rõ các cơ quan nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên
thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho
việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm
soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Thực tiễn đã cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng
đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để
cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân
dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc
kiểm soát quyền lực nhà nước mới có hiệu quả. Ngoài ra, nhằm nâng cao tính hiệu
lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ
sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013) còn khẳng định cơ chế kiểm
soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Và theo đó, đã quy định một chương
riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba cơ quan: Hội đồng Hiến
pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận các thiết
chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và
Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát nhà nước hiện
nay./.
Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần nâng cao cảnh giác với các luận điệu chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn hiểm độc, tinh vi của chúng
Trả lờiXóa