Lịch sử vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam nói riêng cũng như thực tiễn phát triển của thế giới trong suốt thế kỷ XX và những thập niên đầu thế kỷ XXI nói chung đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch, bọn cơ hội chính trị cả trong và ngoài nước; đồng thời, chứng minh rằng, nước ta quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động phát triển, tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta, đó là sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam, là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta, là một trong những đóng góp to lớn của Đảng, Bác Hồ cho kho tàng lý luận của nhân loại.
Sau những biến động chính trị ở Liên
Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công
kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Mác -
Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù địch với CNXH. Họ nhanh
chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn công hòng “chôn vùi
vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào
khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam
go, những người hoang mang, dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản
Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường đi lên CNXH mà Bác Hồ,
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của CNXH hùng mạnh
như Liên bang Xô Viết mà còn không đứng vững, thì một đất nước nhỏ bé, nghèo
nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên CNXH được(?). Một số người thậm
chí cho rằng, giá như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì
biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại
tránh được mấy cuộc kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v.. Một câu hỏi
đặt ra: Có thật là như vậy không?
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định:
“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ
xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo
quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.
Trong xu thế vận động chung đó của thế
giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử…Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ (TKQĐ) lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Một là, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử
phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH). Song,
không phải HTKT-XH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKT-XH tiếp sau mới ra đời.
Giữa HTKT-XH cũ bị thay thế và HTKT-XH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có
một giai đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với
giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế
độ xã hội trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó
khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán
Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”.
Hai
là, học thuyết Mác -
Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải
trải qua 5 HTKT-XH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời
gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong
chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKT-XH từ
thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một
hoặc vài HTKT-XH nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều
kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật
khách quan.
Ba là, cũng như lịch sử xã
hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách
quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
Thứ
nhất, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm
cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu
giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong
lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ
sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới
có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát
triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh
tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách
quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà
sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được
độc lập dân tộc, có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với
những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có
vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều
kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thứ
hai, sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp,
nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên
lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản
xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát
triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người
sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB,
dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị
mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột
và khó có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời
đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu
thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát
triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa
chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ
chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất
nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng
giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội...”.
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30
năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của
cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật
của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở
thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình
cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để
có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế,
dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con
đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong
nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua
chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn,
trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa
vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị
thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại”. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa
là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển
tiếp giữa HTKT-XH cũ và HTKT-XH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ
gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép
chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy
nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung
gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác
dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng
thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình
phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Bốn là, lịch
sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng minh
rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh
chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và
cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như
vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập
trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều
thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi
lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân
Pháp và 21 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh
liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng,
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên
CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết
điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm
những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua
kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường
quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng
đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận
định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả
từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập
niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây
dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là
một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc
điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân
ta.
Ấy vậy mà, Ngọc Trường là một trong các đối tượng cơ hội chính trị, phản
động, ấu trĩ về mặt nhận thức, non kém về mặt tư duy lý luận và thực tiễn, hèn
kém về mặt động cơ, mục đích, bạc nhược, suy thoái về mặt tư tưởng, chính trị,
đạo đức đã tán phát nhiều tài liệu, bài viết trên các trang mạng phản động, điển
hình trên trang blog Tiến Dân, ngày 28/6/2020 đối tượng Ngọc Trương tán phát
bài “Chủ nghĩa xã hội và cộng sản đều thất bại”, với nội dung xuyên tạc sự lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhân dân ta, kêu gọi người
dân “không tin” vào Đảng, chế độ; kích động gây hận thù dân tộc.
Tất cả
những tài liệu, bài viết mà Ngọc Trương và các thế lực phản động, bọn cơ hội
chính trị tán phát trên các trang mạng phản động đều nhằm mục đích chống đối lại
Đảng, Nhà nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành kinh
tế - xã hội của Nhà nước, nhằm xóa bỏ chế độ XHCN mà toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta đã dày công xây dựng. Đặc biêt, là trước thềm Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sắp diễn ra, các thế lực thù địch, phản động, bọn
cơ hội chính trị, chúng sẽ điên cuồng chống phá với nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm
độc. Những âm mưu, hành động ấy sẽ bị đập tan trước sức mạnh của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, của hơn 97 triệu đông bào luôn một lòng, một dạ kiên định, tin
tưởng, ủng hộ tuyệt đối sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta.
Niềm tin, ý chí, sức mạnh ấy sẽ mãi mãi trường tồn cùng với sự trường tồn, lớn
mạnh không ngừng của dân tộc Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét