Trên trang facebook chân trời mới
Media ngày 09/12/2020 đối tượng Anh Hoàng tán phát bài: “Truyền thông cần tự do
- xã hội mới phát triển”. Chúng đã viết: “…Truyền thông chính là đội quân tiên
phong tìm ra những góc khuất và mảng tối đó để làm sáng tỏ, và từ đó mọi người
biết đến và chung tay giải quyết…. Thực tế, chính quyền Việt Nam lại đã dùng
quyền lực để gây sức ép lên nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube xóa bài
viết hay video nêu ra những vấn nạn của Việt Nam... Rõ ràng, chính quyền Việt
Nam đang dùng quyền lực đầy tính độc tài của mình để che đậy đi những mảng tối,
những bất công trong xã hội và nếu điều này tiếp tục diễn ra thì vấn nạn xã hội
sẽ tiếp tục trầm trọng hơn và xã hội sẽ không thể phát triển được.” Chúng ta
thấy rằng đây là một trong những thủ đoạn, mưu
đồ chống phá xuyên tạc khái niệm tự do báo chí; viện dẫn các quy định của luật
pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về tự do báo chí, nhưng cố tình lờ đi những
quy định và điều khoản nghĩa vụ kèm theo rồi tán phát qua internet, mạng xã hội
làm cho nhiều người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối, không
có bất cứ một hạn chế nào. Bằng nhiều hình thức khác nhau, các đối tượng còn
tác động đến Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua
các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên,... với nội dung xuyên tạc tình
hình dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “vi phạm tự
do ngôn luận, tự do báo chí”. Trên lĩnh vực báo chí, một số đối tượng còn thành
lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự
do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà
nước Việt Nam.
Về
khái niệm tự do báo chí, xin được khẳng định lại quan điểm của cộng đồng Quốc
tế, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966. Điều
19 quy định như sau:
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không
bị ai can thiệp.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm
quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân
biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng
hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo sự
lựa chọn của họ.
3.
Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những
nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế nhất
định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết
để:
a) Tôn
trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo
vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công
chúng.”
Như
vậy, bên cạnh quyền tự do báo chí, ngôn luận, còn bị hạn chế bởi quy định là:
không được vi phạm “quyền, uy tín cá nhân” (người khác); không được làm tổn hại
đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng.
Chẳng hạn, một kẻ đưa tin một ai đó có hành vi tham nhũng nhưng không có bằng
chứng là vi phạm quyền và uy tín cá nhân; một kẻ đưa tin về một lực lượng quân
sự nào đó vi phạm chủ quyền quốc gia, nhưng không có sự thật, làm tổn thương
đến quan hệ quốc tế, là vi phạm an ninh quốc gia đó; hoặc có kẻ đưa những hình
ảnh về tệ nạn xã hội có thể làm hại đến môi trường văn hóa của một đất nước...
Như vậy, cần phải hiểu đầy đủ khái niệm tự do ngôn luận, tự do báo chí cả về
nội dung tư tưởng, chính trị và văn hóa.
Tự do ngôn luận báo
chí đối với các chế độ xã hội và nhà nước là một điều kiện bảo đảm quyền con
người. Hơn thế nữa còn là một điều kiện quan trọng để phát triển xã hội về các
mặt, từ tư tưởng, chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa. Một xã hội không có
tự do ngôn luận, báo chí, như có người nói - đó là “một xã hội đã chết lâm
sàng”. Tự do ngôn luận, báo chí của người dân Việt Nam đã được hiến định bảo
đảm bằng một hệ thống pháp luật minh bạch. Mọi luận điệu xuyên tạc quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí của Việt Nam cần phải bị bác bỏ, lên án.
Sông Lô - KT19
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét