QUANG PHƯƠNG
Cách mạng Tháng Tám (CMT8) có giá trị vĩ đại không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại. Thế nhưng hiện nay, vẫn có thế lực từ bên ngoài với tâm địa đen tối, bằng những lập luận thiếu tử tế hòng xuyên tạc và phủ định giá trị của CMT8.
Họ cho rằng không
cần phải làm CMT8 vì với xu thế chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
thực dân Pháp rất muốn và sẽ tự trao trả độc lập cho Việt Nam. Hơn nữa, họ còn
cho rằng dân tộc Việt Nam cũng không cần độc lập mà cứ là một thuộc địa của
Pháp thì sẽ phát triển hơn. Đáng buồn và đáng giận là vẫn có những người Việt
Nam thuộc thế hệ sau được hưởng thành quả từ xương máu của thế hệ đi trước,
nhưng vì thiếu hiểu biết, suy nghĩ nông cạn đã bị ảnh hưởng từ những thông tin
sai trái, để rồi có những lời lẽ vô ơn khi nhắc tới CMT8.
Đầu tiên cần phải
khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ
hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu
tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một
quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang.
Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi
nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương
thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi
chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng
của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn
biển”(1). CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa
đứng lên giành độc lập.
Thực tế là Việt
Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ thực dân Pháp.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc nêu rõ rằng, thực dân
Pháp “đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là "mùa thu năm 1940, phát xít
Nhật đến xâm lăng Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa
nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật".
Rồi ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đã đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp không chỉ
ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là
đầu hàng. Sau đó, phát xít Nhật đã dựng lên một chính phủ bù nhìn do Trần Trọng
Kim đứng đầu. Chính phủ này chỉ tồn tại trên giấy, không làm gì và cũng không
thể làm gì. Mọi quyền hành đều trong tay phát xít Nhật.
Như thế, câu
chuyện thực dân Pháp trả độc lập, tự do cho Việt Nam là điều hoàn toàn nực cười
cả về pháp lý, đạo lý và thực tế lịch sử. Vì người ta không thể “cho” hay “trả”
cái mà người ta không có.
Và thực dân Pháp
có muốn trả độc lập, tự do dân tộc Việt Nam không? Thực dân Pháp không bao giờ
muốn! Lịch sử đã cho thấy rõ ràng! Khi thế cuộc của Chiến tranh thế giới thứ
hai đã rõ ràng với chiến thắng của phe Đồng minh, thực dân Pháp đã có mưu đồ
quay trở lại xâm lược nước ta. Ngay sau khi nước ta giành độc lập, thực dân
Pháp theo chân quân Mỹ, Anh vào Nam Bộ để giải giáp quân Nhật. Ngày 23-9-1945,
quân Pháp bất ngờ tấn công để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại Nam Bộ.
Nam Bộ bị quân Pháp dìm trong bể máu. Độc lập, tự do của nhân dân ta ở Nam Bộ
chỉ không đầy một tháng lại bị thực dân Pháp tước đi. Cả Nam Bộ đứng lên kháng
chiến để đánh đuổi quân Pháp. Sau khi tấn công chiếm Nam Bộ, Pháp tiếp tục đưa
quân ra miền Bắc, liên tục khiêu khích, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Nhiều
lần Chính phủ ta đã tỏ thiện ý thương lượng, đàm phán, với sự nhân nhượng vì
mong muốn duy trì hòa bình, tránh đổ máu cho dân tộc nhưng không thể được trước
tâm địa đen tối của thực dân Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa. Quân Pháp
quyết gây chiến tranh khi liên tiếp gây ra các vụ thảm sát tại Hải Phòng và Hà
Nội. Sau đó, ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư liên tiếp, đòi
tước vũ khí của Quân đội ta. Đến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Cả dân tộc đứng lên trường kỳ
kháng chiến 9 năm để đánh đuổi thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết. Thế nhưng thực dân Pháp rút đi thì
đế quốc Mỹ cũng ngay lập tức thế chân tại miền Nam, với mưu đồ biến miền Nam
nước ta thành thuộc địa kiểu mới và để từ đó tấn công phá hoại miền Bắc. Lịch
sử đã chứng minh rằng, các nước thực dân, đế quốc luôn muốn đặt ách thống trị tại
Việt Nam, không bao giờ muốn nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do. Từ
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta đã phải
anh dũng, kiên cường chiến đấu suốt 30 năm nữa, đổ bao xương máu mới có được
độc lập, tự do, thống nhất trên cả nước.
Ấy thế mà ngày
nay, vẫn có những kẻ muốn lừa bịp giới trẻ, vẽ ra ảo tưởng thực dân, đế quốc
tốt bụng, sẽ trao trả độc lập, tự do cho dân tộc ta, đem lại sung sướng, hạnh
phúc cho nhân dân ta và chúng ta chẳng cần phải làm gì, chỉ trông chờ vào sự
tốt bụng đó.
Nguy hiểm hơn, có
những người mang dòng máu Việt Nam lại gieo rắc luận điệu cho rằng, nước ta
chẳng cần độc lập để làm gì, mà cứ giữ là thuộc địa của Pháp có khi lại phát
triển hơn, đời sống người dân sung sướng hơn. Luận điệu ấy chắc chắn chỉ có
trong đầu óc của những kẻ thiếu tử tế và thiếu nhân cách. Suy nghĩ ấy là của
những kẻ luôn muốn ăn bám và tư duy lệ thuộc. Đó là những kẻ không xứng đáng
đứng trước tổ tiên để nhận mình là con cháu Việt Nam. Lịch sử oanh liệt hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy ý thức, khát vọng độc lập,
tự chủ đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Người Việt Nam, dân tộc Việt
Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh chứ quyết không chịu đặt dưới ách cai trị của
dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam cũng không chịu để kẻ thù cướp đi bất cứ tấc đất
nào của cha ông để lại.
Khi đọc những lời
lẽ hùng hồn trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh bất ngờ dừng lại và hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Và cả
triệu người đồng thanh đáp lại vang dội: “Có!”. Trong giờ phút ấy, chắc hẳn từ
vị Chủ tịch nước cho tới từng người dân đều xúc động nghẹn ngào, nhiều giọt
nước mắt đã rơi... Tại Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh), do hạn chế về kỹ thuật,
không thể tiếp sóng phát thanh trực tiếp lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ
tuyên ngôn độc lập từ Quảng trường Ba Đình, do đó, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ
ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm
thời Nam Bộ đã được đề nghị lên phát biểu. Trong phát biểu của mình, ông Trần
Văn Giàu cũng nêu rõ: “Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc
lập... Việt Nam đương tiến bước trên đường sống”. Ông cũng đã chỉ rõ mưu toan
của thực dân Pháp: “Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ
25 triệu đồng bào”. Ông đã hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa
nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ
thực dân-ra mặt hay giấu mặt-trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi của ông, cả triệu
người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!” vang dội cả góc trời. Thay mặt
hàng triệu người dân Nam Bộ, ông Trần Văn Giàu nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ
quốc: “Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh Chánh phủ, chống mọi sự xâm lăng,
dầu chết cũng cam lòng”(2).
Chính vì ý thức,
khát vọng độc lập, tự do rất mãnh liệt như vậy nên dù trải qua bao thăng trầm
của lịch sử, dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa như
rất nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã từng tồn tại và biến mất.
Cái ý nghĩ, mong muốn nhờ vào ngoại bang để có được hạnh phúc, phồn vinh
đã bị không chỉ lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử nhân loại chứng minh sự sai
lầm. Suy nghĩ sai lầm tai hại ấy không chỉ làm cho nhiều thế hệ hào kiệt, nhiều
nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam phải sa cơ, thất bại mà còn làm cho con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc của chúng ta kéo dài. Phải đến khi nhà cách
mạng Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước chân chính, đến khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì sự nghiệp giải phóng dân
tộc mới đi đúng hướng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng
8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”.
“Đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta” chính là thể hiện tinh thần, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường
của cuộc CMT8. Đó chính là phương thức cứu nước đúng đắn mà thế hệ trước đã tìm
ra, đã thực hiện thành công và trao truyền lại cho thế hệ những người Việt Nam
tiếp theo. Ngày nay, bài học vô giá phải trả bằng máu đó phải được tiếp tục
khắc cốt ghi tâm trong những người con mang dòng máu Việt Nam. Dân tộc ta không
thể phó mặc, không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào để bảo vệ
chủ quyền đất nước, để được độc lập, tự do. Dân tộc ta cũng không thể trông chờ
vào bất cứ dân tộc, quốc gia nào để được hạnh phúc, phồn vinh, phát triển.
Chúng ta trước hết phải dựa vào sức mình! Bằng tinh thần đoàn kết, bằng trí
tuệ, ý chí, sức lực, lòng dũng cảm của mình, chắc chắn chúng ta sẽ làm được
điều đó! Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ trường tồn!
Đã gần 75 năm kể
từ ngày lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang vọng
trên Quảng trường Ba Đình. Việt Nam của chúng ta ngày nay đã rất khác xưa, đã
là một đất nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, hạnh phúc và đang ngày
càng phát triển. Với vị thế quốc gia của mình, Việt Nam có tiếng nói ngày càng
có trọng lượng trên trường quốc tế, được bạn bè quốc tế lắng nghe, tin tưởng và
nể trọng. Tất cả thực tế đó đã chứng minh những luận điệu xuyên tạc về CMT8 là
hoàn toàn sai trái, không thể có chỗ đứng trong lòng những người Việt Nam chân
chính và nhân loại có lương tri.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét