Mạnh Tường
Các quyền
con người - nhân quyền hiện đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của các nhà nước,
thiết chế, tổ chức và cộng đồng, được giới học giả đi sâu nghiên cứu và ngày
càng có vị trí nổi bật tại các diễn đàn song phương và đa phương. Song, đây
cũng là vấn đề phản ánh sự khác biệt trong cách tiếp cận của các nước, nhóm
nước khác nhau.
Có một thực
tế là, vì bị chà đạp, bị tước các quyền cơ bản, nên đấu tranh đòi nhân quyền
(quyền con người) - vốn là một giá trị văn hóa của nhân loại. Ấy vậy mà, chính
những kẻ đi tước quyền người khác lại lớn tiếng lên án những người bị tước
quyền là vi phạm nhân quyền. Vậy, tại sao vẫn còn tồn tại nghịch lý đó?
Trên bình diện nhân văn, quyền
con người được xem là một phạm trù đạo đức mà hạt nhân của nó là sự tôn trọng
nhân phẩm và tinh thần nhân đạo, khoan dung đối với con người. Trên bình diện
pháp lý, quyền con người là các nhu cầu, lợi ích (về vật chất và tinh thần) của
tất cả mọi người - “không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo... hoặc các
điều kiện khác” được quy định trong pháp luật - được pháp luật bảo vệ. Khác với
quyền công dân, quyền con người là quyền của mọi thành viên trong cộng đồng
nhân loại. Đây chính là cơ sở lý luận và pháp lý mà các thế lực thù địch thường
lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, hằng năm
phương Tây và Mỹ đều đưa ra cái gọi là “nghị quyết”, “báo cáo”, “dự luật” về
tình hình nhân quyền ở Việt Nam, cụ thể: Nghị quyết ngày 18 tháng 4 năm 2013
của Nghị viện châu Âu về tình hình nhân quyền ở Việt Nam; ngày 21 tháng 4 năm
2013, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2012, trong đó
có phần đánh giá về tình hình nhân quyền ở Việt Nam; gần đây, Ủy ban Đối ngoại
Hạ viện Mỹ đã thông qua “Dự luật nhân quyền Việt Nam HR 1897” do hai nghị sĩ
Đảng Cộng hòa: Ed Royce, bang California và Chris Smith, bang New Jersey khởi
xướng. Dự luật HR 1897 đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở
Việt Nam thông qua ràng buộc điều kiện nhân quyền và dân chủ vào các khoản viện
trợ phi nhân đạo dành cho chính phủ Việt Nam, đồng thời cổ súy thái độ cứng rắn
hơn đối với Hà Nội trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo.
Mới đây nhất, các cuộc vận động của Ủy ban Cứu người vượt biển BPSOS
do Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc điều hành BPSOS đã yêu cầu Tổng thống Barack
Obama áp lực Việt Nam phóng thích tù nhân lương tâm và cải thiện nhân quyền
đang được chuẩn bị ráo riết trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang vào ngày 25 tháng 7 năm 2013. Trong đó kêu gọi Tổng thống
Obama, với quyết tâm cổ vũ dân chủ trên toàn cầu, hãy đứng về phía những nhà
hoạt động nhân quyền dũng cảm tại Việt Nam như tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, nhạc
sĩ Việt Khang, blogger Điếu Cày, nhà hoạt động chống Trung Quốc: Nguyễn Phương
Uyên hay Đinh Nguyên Kha, những người bị giam cầm tùy tiện chỉ vì dám bày tỏ
quan điểm bất đồng chính kiến; tố cáo nhà nước Việt Nam thời gian gần đây không
ngừng leo thang đàn áp những tiếng nói bất đồng quan điểm với nhà nước, bắt bớ
rất nhiều blogger và những nhà hoạt động chính trị cũng như tăng cường kiểm
soát internet, giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, và tự do tụ tập
của công dân, v.v..
Phải chăng
các cáo buộc trên là đúng sự thật? Sự thật là, ngay trong chính giới Hoa Kỳ - hạ nghị sỹ Eni Faleomavaega - ngày 27 tháng 6 năm 2013 đã bày tỏ sự thất
vọng trước việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua cái gọi là “Dự luật nhân
quyền Việt Nam năm 2013” hay còn gọi là dự luật H.R. 1897, hạ nghị sỹ này cho
rằng: “Thật đáng tiếc là những nội dung trong bản Dự luật nhân quyền
Việt Nam 2013 đã không phản ánh chính xác bức tranh Việt Nam” và nhấn mạnh dự
luật nhân quyền sai trái này chịu sự tác động mạnh mẽ bởi cộng đồng người Việt
ở Mỹ “Là một cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam, tôi chia sẻ với cộng
đồng người Việt ở Mỹ. Nhưng đưa ra những thông tin không chính xác và chống lại
Chính phủ Việt Nam không phải là hành động đúng đắn. Nước Mỹ có một lịch sử
đáng tự hào trong việc gác lại quá khứ để nối lại và xây dựng quan hệ. Với
trường hợp của Việt Nam, hãy để quá khứ là quá khứ, để quá trình hàn gắn được
bắt đầu”. Thông cáo báo chí của hạ nghị sỹ cấp cao thuộc Tiểu ban châu Á
- Thái Bình Dương viết: “Các nhà lãnh đạo của Việt Nam cam kết một cách đầy đủ
trong việc thúc đẩy mối quan hệ Mỹ - Việt Nam và thúc đẩy nhân quyền. Việt Nam
tham gia hầu hết các hiệp định về nhân quyền quốc tế. Việt Nam tham gia đàm
phán về nhân quyền với Liên minh châu Âu, Australia, Na Uy, Thụy Sĩ và Mỹ. Việt
Nam đang cải thiện tình hình nhân quyền bằng việc củng cố hệ thống luật pháp,
các quyền về văn hóa xã hội, kinh tế. Việt Nam như tôi biết chào đón sự trợ
giúp của cộng đồng quốc tế trong việc thực thi các chính sách nhân quyền”. Hơn
nữa, các dự luật tương tự Dự luật HR 1897 đã nhiều lần bị Thượng viện Mỹ bác bỏ
đã chứng minh cho tính sai trái trong các “nghị quyết”, “báo cáo”, “dự luật” về
tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Hội thảo quốc tế với chủ đề: “Nội dung và cơ
chế bảo vệ quyền con người - kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam”, do
Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Viện KAS của Cộng hòa liên bang Đức
tổ chức ngày 22 tháng 9 năm 2011, các nhà khoa học khẳng định: Việt Nam có cả
cơ chế nhà nước và cơ chế xã hội về nhân quyền. Nhờ có cơ chế này mà Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực nhân quyền. Trong đó, GS.TS Võ Khánh Vinh, Phó Chủ tịch
Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, quyền con người và bảo đảm quyền con
người phải được nhìn nhận dưới góc độ tiếp cận liên ngành và đa ngành. Hiện có
3 nhóm chủ thể bảo đảm quyền con người được xác lập gồm các thiết chế, thể chế
kinh tế thị trường; thiết chế, thể chế nhà nước và thiết chế, thể chế của các
tổ chức xã hội dân sự. Việc xây dựng hệ thống các chuẩn mực phải được đặt trong
trạng thái động vì xã hội luôn phát triển nên các chuẩn mực cũng phải luôn được
điều chỉnh, bổ sung, v.v..
Như chúng
ta đã biết, xác định con người vừa là mục tiêu và động lực của sự nghiệp phát
triển đất nước, vừa là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu phục vụ
con người và vì con người. Những thành quả quan trọng mà Việt Nam đạt được qua
hơn 30 năm đổi mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực quyền con người, là minh
chứng rõ rệt cho chính sách bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Ðảng và Nhà
nước Việt Nam. Những thành tựu này đã được cộng đồng quốc tế và các nước ghi
nhận.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Ðảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan
điểm rằng nhân quyền trước hết phải là quyền của mỗi người, mỗi dân tộc được
thực hiện quyền tự quyết, được sống trong độc lập, tự do và được phát triển về
mọi mặt; các quyền dân sự, chính trị phải đi đôi với các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa; quyền và tự do cá nhân phải gắn với lợi ích chung của dân tộc và trách
nhiệm đối với cộng đồng. Bảo đảm và thực hiện quyền con người trước hết là
trách nhiệm quốc gia, không thể có sự áp đặt từ bên ngoài.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, chúng ta “sẵn sàng đối thoại với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân
quyền”. Với tư tưởng chủ đạo đó, ta chủ động tiến hành đối thoại với các nước
có quan tâm để làm rõ chủ trương, chính sách và thực tiễn về quyền con người ở
Việt Nam, bảo vệ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế về chủ quyền quốc gia,
quyền tự quyết dân tộc và quyền lựa chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc,
chống việc lợi dụng vấn đề nhân quyền đề can thiệp công việc nội bộ của một
nước.
Chúng ta khẳng định chính sách của Nhà nước Việt Nam là luôn coi trọng
và thúc đẩy các quyền con người, coi con người là mục tiêu và động lực của mọi
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, Việt Nam đã chú trọng thực hiện
các chương trình kinh tế - xã hội nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; đồng thời coi
trọng việc phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, thúc đẩy công
bằng và an sinh xã hội... Những nỗ lực này được sự ủng hộ, tham gia rộng rãi
của nhân dân đã đem đến nhiều đổi thay tích cực trong mọi mặt của đời sống xã
hội.
Thực tiễn
đã phản bác những điểm sai trái trên từng lĩnh vực mà một số nước đã nêu thông
qua việc cung cấp thông tin về tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, trong đó có việc xây dựng, sửa đổi bổ sung và ban hành các văn bản luật
quan trong liên quan đến quyền con người và các cơ chế thực hiện, nêu đậm thành
tựu và sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam trên mọi mặt. Ðó là cơ sở để
chúng ta bác bỏ nhận định cho rằng thời gian gần đây việc bảo đảm các quyền dân
sự, chính trị tại Việt Nam có chiều hướng “đi xuống”, và phê phán nội dung tiêu
cực, thiếu khách quan của các dự luật, nghị quyết và báo cáo của chính giới các
nước phương Tây về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Ðối với những cáo buộc tiêu
cực về việc Việt Nam vi phạm quyền con người, thì thực tế sinh động của hoạt
động báo chí, tốc độ phát triển của mạng internet, đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo phong phú, đa dạng của người dân và các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, cũng
như sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực của người dân trong các cơ chế
giám sát hoạt động của Nhà nước chính là câu trả lời rõ ràng và hiệu quả nhất.
Trong phiên họp cấp cao khóa họp lần thứ 22 của Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc năm 3013 tại Giơnevơ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh chính sách nhất quán bảo đảm quyền con người
của Nhà nước Việt Nam xuất phát từ nhận thức coi quyền con người là giá trị
chung của nhân loại, có gốc rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng
nghìn năm của dân tộc, từ nguyện vọng thiết tha của người dân Việt Nam từng bị
tước bỏ những quyền và tự do cơ bản nhất khi làm người dân của một nước thuộc
địa. Bộ trưởng cũng nêu bật chính sách, luật pháp, thành tựu về bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam, đặc biệt về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm
an sinh xã hội và các quyền cơ bản của người dân trên mọi lĩnh vực, đồng thời
khẳng định chính sách tăng cường đóng góp và hợp tác quốc tế của Việt Nam trong
lĩnh vực quyền con người, đặc biệt đối thoại nhân quyền với nhiều nước, tham
gia hầu hết các công ước quốc tế về nhân quyền, thực hiện tốt Cơ chế Kiểm điểm
định kỳ (UPR)… Bộ trưởng cũng đã tái khẳng định việc Chính phủ Việt Nam quyết
định ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 nhằm
đóng góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc
tế trong việc bảo vệ quyền con người.
Việt Nam cũng tiến hành nhiều bước đi tích cực và chủ động trong hợp tác
quốc tế và đối thoại: mở cơ chế đối thoại kênh hai giữa các tổ chức quần chúng
nhân dân, học giả để tăng cường trao đổi và thông tin về vấn đề nhân quyền, tôn
giáo; chủ động soạn thảo và ban hành cẩm nang về nhân quyền, sách trắng về
thành tựu thúc đẩy và bảo vệ quyền con người tại Việt Nam; sách trắng về tôn
giáo; đăng cai tổ chức một số hội thảo quốc tế và phối hợp với các nước đối
thoại tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế như Hội thảo về Công ước chống tra
tấn, Hội thảo về án tử hình; Hội thảo quốc tế về nhân quyền do Trung Quốc, Na
Uy và Canađa bảo trợ, Hội thảo về vấn đề tư pháp hình sự và buôn bán người...
Việt Nam cũng tổ chức các lớp tập huấn về các công ước quốc tế về nhân quyền mà
Việt Nam tham gia, chủ động đón các đoàn nước ngoài vào Việt Nam để thảo luận
về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, tôn giáo, tạo điều kiện cho các đoàn và
các cơ quan đại diện của các nước và nhà báo nước ngoài đi thăm các địa phương;
cử nhiều đoàn chức sắc tôn giáo, nghị sĩ, các đoàn liên ngành sang các nước để
trao đổi, vận động, trực tiếp đối thoại... Việc chúng ta chủ động mời và chuẩn
bị đón một số báo cáo viên đặc biệt và chuyên gia độc lập của Liên hợp quốc về
nhân quyền vào thăm Việt Nam cũng là một động thái tích cực được các nước ghi
nhận và đánh giá cao.
Cộng đồng quốc tế thêm tin yêu Việt Nam, không chỉ vì Việt Nam phê chuẩn
hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người (trong đó, Việt Nam là một
trong những nước phê chuẩn sớm nhất Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ và Công ước về quyền trẻ em), mà còn được nhắc đến như một
tấm gương sáng về xóa đói, giảm nghèo. Đó là lý do tại sao Liên hợp quốc lại
lấy Việt Nam làm mô hình để thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng, Việt Nam đang ở trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ mà chúng ta vừa phải cải tạo xã hội cũ, vừa
tiến hành xây dựng xã hội mới. Trong quá trình ấy, chúng ta không tránh khỏi có
những vấp váp ở nơi này, nơi khác trong thực hiện quyền con người. Tuy nhiên,
đó không phải là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng minh rõ: Đảng và nhà nước Việt Nam luôn nghiêm túc khắc phục những
thiếu sót và có nhiều chủ trương, biện pháp để phấn đấu thực hiện ngày càng tốt
hơn các quyền con người của người dân Việt Nam. Vì vậy, không chỉ công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà với thái độ đầy thiện chí của
mình, Chính phủ Việt Nam còn sẵn sàng mời những ai quan tâm và chia sẻ về vấn
đề nhân quyền ở Việt Nam đến Việt Nam.
Với những
bước đi chủ động, tích cực và đa dạng nêu trên trong hợp tác quốc tế và đối
thoại trên lĩnh vực nhân quyền, chúng ta đã làm sáng tỏ chính sách của Nhà nước
Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan, tác động tốt tới dư luận quốc tế, tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường
quốc tế; mặt khác, giảm thiểu đến mức tối đa sức ép từ bên ngoài chống Việt Nam
và vô hiệu hoá các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch. Chúng
ta luôn biết ơn và trân trọng tình cảm của các chính phủ, các cá nhân và tổ chức
quốc tế đã và đang dành cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất lẫn tinh
thần trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh, hậu quả thiên tai và nhiều lĩnh
vực khác - thực chất là để giúp Việt Nam bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền
con người cho công dân của mình. Song chúng ta cũng quyết không chấp nhận những
ai còn mang “cái ô nhân quyền” để chống Việt Nam. Trong xu thế hiện nay, việc
làm đó chỉ là khúc điệp tấu lạc điệu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét