Biển 2
Những ngày qua, dư luận xã hội bày tỏ sự
đồng tình, đánh giá cao việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 205 về việc kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ (CTCB) và chống chạy chức, chạy quyền.
Sự ra đời hết sức cần thiết, kịp thời,
với những nội dung cụ thể, rõ ràng, chi tiết, Quy định số 205 thể hiện quyết
tâm cao của cả hệ thống chính trị trong giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất
của CTCB tồn tại nhiều nhiệm kỳ qua. Với việc triển khai thực hiện nghiêm túc,
quyết liệt trong thực tiễn, Quy định số 205 được kỳ vọng là công cụ sắc bén, là
cái “lồng” cơ chế để “nhốt” quyền lực, nhằm kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn, đẩy
lùi các hiện tượng tiêu cực trong CTCB, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, pháp
luật”.
Thực tiễn cho thấy, hoàn thiện thể chế
để kiểm soát quyền lực trong CTCB, chống chạy chức, chạy quyền là nhiệm vụ hết
sức cấp bách hiện nay. Bởi, thời gian qua, chúng ta chưa hoàn thiện cơ chế hữu
hiệu để giám sát, kiểm soát quyền lực trong CTCB; chưa có biện pháp hữu hiệu để
kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực
trong CTCB; thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám
sát và xử lý vi phạm khiến không ít người đứng đầu cấp ủy lợi dụng quyền lực để
thao túng, lạm quyền, làm cho CTCB trở nên méo mó, chạy chức, chạy quyền cũng
từ đó mà nảy sinh. Đáng ngại hơn, chỉ một bước ngắn, từ việc chạy chức, chạy
quyền dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng... Rất nhiều vi
phạm trong CTCB gần đây đã được đưa ra ánh sáng. Minh chứng là từ đầu nhiệm kỳ
Đại hội XII của Đảng đến nay, đã có hơn 53.100 cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ
luật, trong đó có hơn 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý.
Rõ ràng, việc Đảng ta dành sự quan tâm
sâu sắc đến nội dung kiểm soát quyền lực trong CTCB và chống chạy chức, chạy
quyền giai đoạn hiện nay là tất yếu. Xuất phát điểm cơ bản và chủ yếu nhất của
vấn đề chính là tác hại, sự nguy hiểm khôn lường của việc “thả nổi quyền lực”,
không kiểm soát được quyền lực và sự “tha hóa quyền lực” trong CTCB, sự “lạm
phát” của vấn nạn chạy chức, chạy quyền. Quyền lực không được kiểm soát chặt
chẽ là tác nhân chính làm tha hóa cán bộ, từ đó làm tha hóa, thoái hóa, biến
chất cả bộ máy. Nếu chúng ta làm tốt việc kiểm soát quyền lực trong CTCB đồng
nghĩa với ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng chạy chức, chạy quyền. Điều này
đặt ra yêu cầu phải có những phương hướng, giải pháp mang tính toàn diện, đồng
bộ, cụ thể, thiết thực và khả thi. Quy định số 205 được coi là thông điệp,
quyết tâm chính trị về kiểm soát quyền lực trong CTCB và chống chạy chức, chạy
quyền của Đảng ta trong bối cảnh hiện nay.
Ðể quy định trên cùng với các văn bản
khác về CTCB sớm được hiện thực hóa trong cuộc sống, nhất là quá trình chuẩn
bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Ðại hội XIII của Ðảng, mỗi cấp ủy,
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu, các cơ quan, cá
nhân làm CTCB cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc, nêu cao trách nhiệm trong từng
việc, từng bước, từng khâu của CTCB. Cùng với đó, có nhận thức sâu sắc, nhận
diện rõ, đấu tranh quyết liệt với các biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền.
Các tổ chức đảng cần chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao
ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, hình thành văn hóa không chạy chức,
chạy quyền. Việc phân công, phân cấp cần gắn với giao quyền, ràng buộc trách
nhiệm, nhất là tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý
nghiêm sai phạm. Phải đặt CTCB trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng
và đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu. Điều hết sức quan trọng là
có cơ chế, tạo mọi điều kiện để nhân dân giám sát cán bộ và CTCB một cách hiệu
quả, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng
quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà
nước và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân”.
Tham vọng Biển Đông trong "giấc
mộng Trung Hoa"
Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc đã có từ lâu, và nó đang thể hiện bằng những vi phạm nghiêm trọng chủ
quyền của các bên liên quan, sự bất chấp luật pháp quốc tế cũng như đe dọa hòa
bình, ổn định, an ninh chung trên toàn khu vực...
Khu vực và thế giới đều cảnh giác
“Giấc mộng Trung Hoa” (còn gọi là “Trung
Quốc mộng”) là một học thuyết mới của Trung Quốc được công khai nêu lên lần đầu
vào năm 2013, sau đó được sử dụng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông
nhà nước Trung Quốc để nói về sự chấn hưng “vĩ đại” của nước này. Rằng đó là
“sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, là giấc mơ lớn nhất của Trung Quốc.
“Giấc mộng Trung Hoa” lần đầu được đề cập là ở trong bài phát biểu nhậm chức
Chủ tịch nước nhiệm kỳ đầu tiên của ông Tập Cận Bình vào 17-3-2014.
Tuy không có nội hàm cụ thể, cũng chẳng
có thời hạn để biến giấc mơ thành hiện thực, nhưng “giấc mộng Trung Hoa” dường
như đã trở thành học thuyết và mục tiêu chủ đạo hiện nay của Trung Quốc nhằm
kêu gọi và tập hợp sức mạnh trong nước.
Trung Quốc đã nhấn mạnh đến 3 yếu tố để
thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, đó là phải đi con đường riêng, con đường được
đúc kết từ hơn 30 năm cải cách mở cửa, hơn 60 năm thành lập nước và 170 năm quá
trình phát triển dân tộc thời cận đại, đó là con đường “Xã hội chủ nghĩa đặc
sắc Trung Quốc”; phải phát huy tinh thần Trung Quốc, đó là tinh thần dân tộc
với chủ nghĩa yêu nước là hạt nhân, là tinh thần thời đại với cải cách sáng tạo
làm nòng cốt; và phải tập hợp sức mạnh Trung Quốc, đó là sức mạnh đại đoàn kết
các dân tộc Trung Hoa.
Với trong nước, “giấc mộng Trung Hoa” đã
đề cập đến mong ước từ lâu muốn “đại phục hưng dân tộc Trung Hoa” cũng như mong
ước của mỗi người dân Trung Quốc về cuộc sống hạnh phúc, khá giả. Tuy nhiên,
với những chính sách, bước đi và biện pháp mà Trung Quốc sau khi công bố “giấc
mộng Trung Hoa” lại thu hút sự quan tâm sâu sắc với những góc nhìn, đánh giá
khác hẳn.
Quan điểm chung cho rằng, đó có thể được
xem như sự tiếp nối chiến lược “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc, là thành
phần quan trọng trong chiến lược “quyền lực mềm” nhằm tìm cách ứng phó lại lý
thuyết, hoài nghi và mối lo lắng cho rằng Trung Quốc là mối đe dọa đối với hòa
bình và an ninh khu vực.
Không ít nhà quan sát nhận định rằng,
“giấc mộng Trung Hoa” là một học thuyết mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Nó có
thể gây ra những tác động nguy hiểm đối với an ninh khu vực và quốc tế hiện tại
cũng như trong tương lai.
“Giấc mộng Trung Hoa” đánh dấu bước
chuyển chiến lược quan trọng của Trung Quốc kể từ khi thành lập nước, nhất là
kể từ khi tiến hành cải cách và mở cửa hơn 30 năm trước tới nay, chuyển từ
chiến lược “giấu mình chờ thời” (để tập trung nguồn lực, tranh thủ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý cho mục tiêu phát triển kinh tế) sang thời kỳ mà
Trung Quốc thể hiện vai trò, tiếng nói và tìm kiếm lợi ích của mình như một
cường quốc toàn cầu.
Khu vực và thế giới cùng cảnh giác, lo
ngại về cách tiếp cận của Trung Quốc sau khi công khai học thuyết “giấc mộng
Trung Hoa”, đặc biệt liên quan đến sự quyết đoán, hung hăng, gây hấn về quân sự
ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông thời gian qua.
Biển Đông không thể lặng sóng nếu Trung
Quốc vẫn tự tung tự tác
“Giấc mộng Trung Hoa” ra đời khi mà
Trung Quốc sau thời gian hơn 30 năm trỗi dậy mạnh mẽ về mọi mặt đã trở thành
cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới. GDP của Trung Quốc đã nhảy vọt từ mức
khoảng 30 tỷ USD trong những năm đầu thập niên 1950 lên tới con số 13.610 tỷ
USD trong năm 2018, so với 20.494,1 tỷ USD của Mỹ và vượt rất xa so với các
cường quốc kinh tế như Nhật Bản (4.970,9 tỷ USD), Đức (3.996,8 tỷ USD) và Anh
(2.825,2 tỷ USD)…
Nhiều nhà kinh tế dự báo, kinh tế Trung
Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2030, tuy nhiên, theo Ngân hàng thế giới (WB), nếu tính
GDP theo phương pháp ngang giá sức mua (PPP), Trung Quốc đã vượt Mỹ từ năm
2014.
Không phải đợi tới khi chính thức vượt
Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới (tính theo con số tuyệt
đối của tổng giá trị GDP), Trung Quốc cùng với việc công bố học thuyết “giấc
mộng Trung Hoa” đã thực thi những chính sách và bước đi để hướng tới mục tiêu
cường quốc toàn cầu hàng đầu. Về địa chính trị và kinh tế là việc khởi xướng
sáng kiến “Vành đai - con đường”.
Cùng năm 2013 công khai học thuyết “giấc
mộng Trung Hoa” với cái nhìn bên ngoài những “dự án đầu tư và cơ sở hạ tầng lớn
nhất lịch sử nhân loại” đầu tư vào hàng loạt quốc gia nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương cũng như Trung Âu, Đông Âu và châu Phi.
Song, thực chất bên trong là nhằm gia tăng ảnh hưởng, chi phối, lợi ích của
Trung Quốc như một cường quốc toàn cầu.
Trung Quốc trong những năm qua đã dành
nguồn lực rất lớn (nhiều thứ hai thế giới sau Mỹ) để gia tăng sức mạnh quân sự
với việc đầu tư ồ ạt những vũ khí hiện đại với mục tiêu trở thành cường quốc
quân sự toàn cầu. Quốc gia này đã sở hữu tất cả những loại vũ khí mạnh nhất của
một cường quốc quân sự, từ tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân chiến lược, tên lửa
đạn đạo xuyên lục địa tới máy bay chiến đấu tàng hình… và đã thiết lập căn cứ
quân sự đầu tiên ở nước ngoài.
Theo “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc
đang vạch ra lộ trình thực hiện mục tiêu cường quốc toàn cầu hàng đầu. Tuy
nhiên, Trung Quốc không dễ hiện thực hóa học thuyết này bởi đang phải đối mặt
với rất nhiều thách thức từ trong nước và quốc tế, trong đó có sự kiềm chế của
Mỹ. Chính quyền Mỹ đã sớm triển khai việc kiềm chế Trung Quốc bằng chiến lược
xoay trục và chiến lược này được nâng lên cấp độ mới, quyết liệt, trực diện
trong chính quyền Mỹ đương nhiệm.
Một trong những lối thoát cũng là “bàn
đạp” để Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy thành cường quốc toàn cầu là “lối ra” trên
Biển Đông. Kiểm soát được Biển Đông là kiểm soát được tuyến vận tải biển chiếm
45% tổng lượng vận tải thương mại thế giới với tổng trị giá khoảng 5.000 tỷ
USD/năm cũng như hàng trăm máy bay hành khách qua lại mỗi ngày, kiểm soát được
nguồn dầu thô hàng chục tỉ thùng cùng hàng trăm tỷ m3 khí; kiểm soát 10% tổng
trữ lượng đánh bắt hải sản toàn thế giới…
Kiểm soát được Biển Đông sẽ chi phối,
ảnh hưởng lớn tới các quốc gia Đông Nam Á hiện đang là một trong những khu vực
phát triển năng động và giữ vai trò trung tâm trong nhiều vấn đề khu vực và
quốc tế lớn.
Soi chiếu vào tất cả những điều đó thấy
và hiểu rất rõ vì sao Trung Quốc trở nên hung hăng và gây hấn tới thế trên Biển
Đông trong những năm gần đây nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò 9 đoạn”,
bất chấp việc những hành vi này xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền các bên liên
quan trên Biển Đông, đi ngược lại luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), đe dọa tự do hàng hải, hàng không và
hòa bình, an ninh, ổn định trên Biển Đông.
Năm 2013 tới nay cũng là thời gian mà
Trung Quốc ráo riết quân sự hóa Biển Đông thông qua việc triển khai lực lượng
lớn quân sự, bồi đắp trái phép các thực thể chiếm đóng trái phép trong quần đảo
Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nổi nhân tạo - căn cứ quân sự… và đặc biệt
là đưa giàn khoan Hải Dương 981, tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm phạm nghiêm trọng
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), thềm lục địa của Việt Nam.
Trung Quốc sẽ còn tiếp tục leo thang hơn
nữa trong những hành vi nhằm hiện thực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông. Biển
Đông không thể lặng sóng bình yên nếu không ngăn chặn được việc Trung Quốc lấy
đây làm “bàn đạp” hiện thực hóa “giấc mộng” công bố năm 2013.
Phải chống triệt để chạy chức, chạy quyền
Trả lờiXóa