Mỗi
khi nhắc đến “mùa Hè đỏ lửa” năm 1972, mọi người lại nhớ về địa danh “Thành cổ
Quảng Trị” gắn với cuộc chiến đấu khốc liệt kéo dài 81 ngày đêm của các lực
lượng giữ Thành cổ (từ 28-6 đến 16-9-1972). Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ mãi
là biểu tượng sáng ngời về tinh thần anh dũng, khát vọng độc lập, tự do, thống
nhất đất nước của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thành
cổ Quảng trị nằm giữa trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 11km; cách thị
xã Đông Hà - tỉnh lỵ của Quảng Trị hiện nay 14km và cách thành phố Huế hơn
60km. Đây là một công trình kiến trúc thành lũy cổ, đồng thời cũng là lỵ sở
hành chính - chính trị của tỉnh Quảng Trị. Suốt chiều dài lịch sử, với vị trí
là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, Thành cổ Quảng Trị không chỉ
có vai trò to lớn đối với sự phát triển của địa phương, mà còn có vị trí quan
trọng to lớn đối với tiến trình phát triển của dân tộc.
Để
trấn giữ phía Bắc kinh đô Phú Xuân (Huế), mảnh đất Quảng Trị luôn được nhà Nguyễn
coi trọng, dùng làm dinh (tỉnh) trực lệ kinh sư (trực thuộc kinh đô), cho đắp
thành lũy. Thành Quảng Trị được khởi dựng vào tháng 8 năm 1801 tại phường Tiền
Kiên, huyện Đăng Xương (Triệu Thành - Triệu Phong). Năm 1809, vua Gia Long dời
dinh lỵ đến xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng (thị xã Quảng Trị hiện nay) và bắt đầu
hoạch định xây dựng thành.
Quá
trình xây dựng của thành Quảng Trị từ khi khởi công dưới thời Gia Long đến khi
hoàn thiện dưới thời Minh Mạng kéo dài gần 28 năm (1809-1837). Bộ phận kiến
trúc chính tạo ra diện mạo tổng quát của thành Quảng Trị là cấu trúc Phòng
thành (Thành ngoài). Phòng thành Quảng Trị được xây bằng gạch, tổng thể có hình
vuông. Thành có kiến trúc theo kiểu Vauban (Vô băng). Kiến trúc Vauban là một hệ
thống phức hợp, gồm những công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và
mang tính bố phòng vững chắc, bao gồm các bộ phận chính như: Lũy, pháo đài,
pháo đài góc, tường bắn, những pháo nhãn hay pháo môn, phòng lộ, đường kín…
Khuôn
viên Thành cổ có chu vi dài 2160m, cao 4,3m, chân thành dày 13,5m, đỉnh dày
0,72m. Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo
đài cao nhô hẳn ra ngoài. Thành có 4 cửa nằm chính giữa 4 mặt Thành: Tiền, Hậu,
Tả, Hữu được xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói
âm dương. Nội Thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, Dinh Tuần
vũ, Dinh Án sát, Dinh Lãnh binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại
lính. Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung
quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa - nơi đây thường để vua ngự
và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong
năm.
Cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ đã xây dựng
thêm trong Thành cổ nhà lao, tòa mật thám, trại lính khố xanh và cơ quan thuế
đoan…
Từ
năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản
và những người yêu nước. Dưới thời tạm chiếm, Mỹ - Việt Nam Cộng hòa biến tòa
thành này thành khu quân sự, xây dựng thêm kho tàng quân đội, trung tâm chỉ huy
và nhà giam…
Mỹ
coi tuyến phòng thủ Quảng Trị là “con đê ngăn chặn” vững chắc nhất ở miền Nam
Việt Nam. Nhưng phòng tuyến đó đã bị Quân giải phóng chọc thủng ngày 1-5-1972
và lá cờ chiến thắng của Quân giải phóng tung bay trên nóc Dinh Tỉnh trưởng ngụy
quyền, báo hiệu toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng.
Không
chấp nhận mất Quảng Trị, được sự viện trợ tối đa của Mỹ, Chính quyền Sài Gòn dốc
toàn bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị, trong đó mục tiêu số 1
là chiếm lại tòa Thành cổ.
Ngày
13-6-1972, Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân “tái chiếm Quảng Trị”
mang mật danh “Lam Sơn 72”. Để chắc thắng, Thiệu đã huy động 4 sư đoàn mạnh nhất,
trong đó có toàn bộ sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng cơ
động chiến lược. Lực lượng tham gia chiến dịch tương đương 13 trung đoàn bộ
binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị không quân, pháo hạm
của Mỹ; đồng thời Thiệu điều Trung tướng Ngô Quang Trưởng - một viên tướng được
kỳ vọng nhiều nhất trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa làm Tư
lệnh Quân khu 1, Quân đoàn 1.
Mở
màn cuộc hành quân “Lam Sơn 72”, sáng ngày 28-6, với sự chi viện của không quân
và hải quân Mỹ, các sư đoàn chủ lực của quân đội Việt Nam Cộng hòa ồ ạt tiến
công sang bờ Bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện cuộc hành quân “tái chiếm lãnh thổ”.
Cuộc
chiến đấu trong những ngày đầu diễn ra vô cùng ác liệt ở các khu vực Đồng
Dương, Diên Khánh, Xuân Viên, Kim Giao. Các chiến sĩ Trung đoàn 64 (Sư đoàn
320B), Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) được sự phối hợp của quân và dân địa phương
đã anh dũng chiến đấu đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch. Tuy nhiên, với lực
lượng đông, vũ khí trang bị hiện đại, cộng với sự giúp sức của Mỹ, sau 1 tuần mở
cuộc hành quân, ngày 5-7, địch đã chiếm được hầu hết huyện Hải Lăng, hình thành
cánh cung áp sát thị xã Quảng Trị, gây cho ta nhiều tổn thất.
Quán
triệt quyết tâm của Quân ủy Trung ương “phải kiên quyết giữ thị xã”, Bộ Tư lệnh
chiến dịch chủ trương tăng cường lực lượng vào thị xã, đồng thời tổ chức những
trận phản kích nhằm vào hai bên sườn đội hình tiến quân của địch, kiên quyết chặn
bước tiến của chúng.
Trung
tuần tháng 7, cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành cổ diễn ra vô cùng ác liệt.
Trên khu vực Ngã ba Thạch Hãn đến Ngã ba Long Hưng, địch đã điều 3 tiểu đoàn dù
(1, 9, 11 thuộc các lữ dù 2 và 3) liên tục tiến công vào xung quanh Thành cổ.
Nhưng mọi cuộc tiến công ồ ạt của địch đều bị chặn lại trước những chốt thép
kiên cường của các lực lượng giữ Thành. Trong những ngày chiến đấu ác liệt này,
cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320B) và Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 bộ đội
địa phương đã chiến đấu anh dũng, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch. Tính từ
28-6 đến 27-7, các đơn vị chốt giữ thị xã và Thành cổ đã đánh thiệt hại nặng Lữ
dù 2 và 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, buộc sư đoàn dù lùi về sau củng cố đội
hình.
Sang
đầu tháng 8, địch mở một trận tập kích hỏa lực lấy tên “Phong lôi” đánh phá
toàn bộ phòng tuyến của ta. Địch cho pháo hạm và pháo mặt đất bắn vào thị xã và
Thành cổ tới hai vạn viên mỗi ngày. Ở Thành cổ, 4 bức tường cao, dày hàng mét vỡ
dần, từng mảng tường lớn dài hàng chục mét cứ dạn ra, nghiêng dần rồi đổ sụp xuống.
Đặc
biệt, ngày 15-9, cuộc chiến đấu giữa lực lượng giữ Thành cổ với thủy quân lục
chiến ngụy diễn ra vô cùng ác liệt. Quân đội Việt Nam Cộng hòa được sự chi viện
tối đa đã ồ ạt xông lên đột phá 2 cổng Thành, tiến sát nhà lao nhưng bị đánh bật
ra bởi hỏa lực của ta. Nhưng với trang bị vũ khí hiện đại, địch tập trung hỏa lực
pháo binh mạnh hơn làm cho sức phản kích của quân ta giảm dần. Các lực lượng giữ
Thành vẫn kiên cường chống trả và chỉ chịu rút lui khi có lệnh của cấp trên vào
chiều ngày 16-9.
Trong
81 ngày chốt giữ Thành cổ, trung bình một chiến sĩ ở đây phải hứng chịu trên
100 quả bom và khoảng 200 quả đạn pháo. Mỗi ngày các chiến sĩ phải đánh địch phản
kích từ 5 đến 7 lần, có khi tới 13 lần; đồng thời phải chứng kiến nhiều loại
bom đạn khác nhau như: bom đào, bom phạt, bom bi, pháo khoan, pháo chụp. Không
chỉ có bom đạn, địch còn thả xuống đây chất độc hóa học gây nhiều khó khăn cho
ta.
Trong
cuộc chiến này, địch đã ném xuống Quảng Trị khoảng 328 nghìn tấn bom, tương
đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima (Nhật
Bản) năm 1945 và đã phá hủy hoàn toàn 1 vạn ngôi nhà và tòa Thành cổ.
Cuộc
chiến đấu diễn ra trong Thành cổ Quảng Trị như một huyền thoại, cách đánh ở đây
cũng khác so với các trận chiến đấu thông thường khác. Lựu đạn phải để xì khói
trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao mà ném hoặc bò sát miệng hầm của địch
mà liệng vào.
Chiến
công giữ vững Thành cổ là khúc tráng ca bất tử, đã đi vào lịch sử đấu tranh
cách mạng của dân tộc Việt Nam như những trang sử hào hùng nhất. Thành cổ như một
bảo tàng ghi nhận sự hy sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và
nhân dân Quảng Trị anh hùng. Cuộc chiến đấu anh dũng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ
đã bẻ gãy ý đồ cuồng vọng tái chiếm Quảng Trị của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa, góp
phần tạo thế mạnh cho ta trên bàn đàm phán Paris.
Với
giá trị lịch sử và tầm vóc chiến công đã được đúc kết bằng xương máu của hàng vạn
chiến sĩ và đồng bào cả nước, Thành cổ Quảng Trị được Bộ Văn hóa Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Quốc gia theo Quyết định số
235/VH-QĐ ngày 12-12-1986. Năm 1994, Thành cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục
những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.
Trận
chiến đấu bảo vệ Thành cổ đã lùi xa, những dấu tích về trận đánh không còn nhiều,
các nhân chứng sống dần một ít đi, nhưng mảnh đất năm xưa, con người năm ấy mãi
mãi được khắc ghi như một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Ngày nay, Thành cổ Quảng Trị sẽ trở thành một công viên văn hóa tưởng niệm; là
nơi khắc dấu những chiến công bất tử của quân dân Quảng Trị anh hùng; nơi giáo
dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho hôm nay và cho các thế hệ
mai sau.
Vì Dân
Bài viết rất có giá trị, nên có nhiều bài về Thành cổ Quảng Trị hơn
Trả lờiXóa