Một trong những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ, đã chỉ ra là: “Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo
ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác”.
Thực chất của
duy ý chí là tuyệt đối hóa vai trò của ý chí con người trong cải tạo thực tiễn
mà bỏ qua, ít tính đến điều kiện thực tiễn, coi thường hoặc thoát ly quy luật
khách quan. Biểu hiện phổ biến của chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, bắt thực tiễn chạy theo ý chí chủ quan
của con người, bất chấp quy luật khách quan. Chính căn bệnh chủ quan, duy ý chí
đã dẫn đến việc tạo ra chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp. Và ngược lại, chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp lại trở thành điều kiện thuận lợi thúc đẩy cho chủ nghĩa chủ quan, duy
ý chí phát triển.
Cán bộ, đảng
viên khi mắc phải căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn đến đề ra các chủ trương,
quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành xã hội xa rời thực tiễn; đường
lối, chủ trương, quyết sách không phản ánh lợi ích của tập thể, không thể hiện
được ý chí của quần chúng nhân dân mà chỉ là lợi ích, ý chí của một bộ phận, một
nhóm người nào đó. Mặt khác căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ khiến con người ta
tuyệt đối hóa vai trò cá nhân, biện pháp mệnh lệnh hành chính, hành động bất chấp
quy luật khách quan. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền
mắc bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng chức quyền, mất dân
chủ, thờ ơ với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng... Những hệ lụy tiêu cực từ
căn bệnh chủ quan, duy ý chí đối với đời sống kinh tế-xã hội là hết sức khó lường.
Người mắc bệnh chủ quan, duy ý chí giữ chức vụ càng cao, vị trí càng quan trọng
thì ảnh hưởng càng lớn, hậu quả càng nặng nề. Căn bệnh này nếu không được phát
hiện, sửa chữa có thể dẫn đến khủng hoảng và thất bại; nếu được phát hiện và sửa
chữa cũng sẽ trả giá cho những tổn thất, làm chậm tốc độ phát triển của xã hội.
Trong thực tiễn
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bài học thấm thía về căn bệnh này. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã chỉ rõ: "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh
tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng,
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…". Từ
nhận định đó cho thấy chủ quan, duy ý chí là một trong những nhân tố chủ yếu dẫn
đến những sai lầm, khuyết điểm trong việc hoạch định đường lối, chính sách,
trong hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta suốt một thời gian dài.
Chủ quan, duy ý
chí là một trong những căn bệnh diễn ra khá phổ biến ở nước ta trong thời kỳ
trước đổi mới. Nhưng nói như thế không có nghĩa là trong giai đoạn hiện nay căn
bệnh này đã hết. Nơi này, nơi kia những biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý
chí vẫn bộc lộ, gây tác hại không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do chủ quan, duy ý
chí mà một số bộ, ngành, địa phương đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá xa vời, quá
cao, không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn, dẫn đến không thực hiện
được, gây ra sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế. Từ thực tế Việt Nam bước
ra hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới với xuất phát điểm rất thấp, do đó
trong nội bộ đã xuất hiện tư tưởng, quan điểm phải chấp nhận đánh đổi để đẩy
nhanh phát triển kinh tế bằng mọi giá, phải lấy chỉ số tăng trưởng làm thước
đo... Do tham vọng tăng trưởng nhanh mà chính quyền một số địa phương sẵn sàng
làm mọi cách để chèo kéo nhà đầu tư, trong đó có việc bỏ qua hoặc hạ thấp yêu cầu
tiêu chuẩn về quản lý xã hội và bảo vệ môi trường. Chính tư tưởng nôn nóng ấy
đã dẫn đến trong quản lý, điều hành chúng ta không giải quyết tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, chỉ nhấn mạnh phát triển kinh tế mà không quan tâm
đúng mức đến những vấn đề văn hóa-xã hội và môi trường. Sự cố ô nhiễm môi trường
biển ở các tỉnh bắc miền Trung là một ví dụ điển hình cho thấy điều ấy. Những hạn
chế trong quản lý, điều hành ở Hà Tĩnh không chỉ dẫn đến sự cố về môi trường mà
còn làm nảy sinh biết bao nhiêu vấn đề về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội phức tạp khác mà cho đến nay chúng ta vẫn đang phải giải quyết.
Để phòng, chống
căn bệnh chủ quan, duy ý chí trong cán bộ, đảng viên có nhiều việc cần làm, nhiều
biện pháp phải thực hiện. Nhưng quan trọng trước hết là việc học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ lý luận của bản thân mỗi cán bộ, đảng viên. Lý luận là kim chỉ
nam chỉ ra phương hướng cho thực tiễn, đồng thời lý luận gắn với thực tiễn là
cơ sở cho phương pháp hành động phù hợp, hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu đề
ra. Trình độ lý luận vững cũng là nền tảng cho phong cách tư duy khoa học. Cán
bộ, đảng viên nếu thiếu phong cách tư duy khoa học thì sớm hay muộn cũng vướng
vào tư duy kinh viện, tư duy nhiệm kỳ, chủ nghĩa giáo điều, duy ý chí. Trong
nhiều văn kiện, Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế, sự non kém về lý luận khiến
cho cán bộ, đảng viên thiếu tư duy biện chứng, thiếu cái nhìn toàn diện, lịch sử,
cụ thể và đó chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến căn bệnh chủ quan, duy ý chí.
Cùng với học tập
nâng cao trình độ lý luận, chúng ta cần chống lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng, ý chí chủ quan. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
thường xuyên rèn luyện cho mình phương pháp, tác phong công tác khoa học, thiết
thực và hiệu quả. Bởi đây là cơ sở nền tảng giúp cán bộ, đảng viên không mắc
vào căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Nếu thiếu phương pháp, tác phong công tác
khoa học, thiết thực, hiệu quả thì căn bệnh chủ quan, duy ý chí rất dễ tái
phát. Cán bộ, đảng viên sẽ rất khó hoàn thành tốt nhiệm vụ, khó có uy tín trong
quần chúng nếu thiếu phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực, hiệu
quả.
Mặt khác, cán bộ,
đảng viên phải đề cao ý thức dân chủ, phát huy tốt dân chủ, thực hiện tốt quyền
dân chủ của quần chúng nhân dân. Dân chủ cũng là biểu hiện của phương pháp, tác
phong làm việc khoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên. Đề cao dân chủ sẽ giúp cho
cán bộ, đảng viên chống được căn bệnh gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, phát
huy tốt tính tích cực, năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và trí tuệ của
tập thể trong thực hiện các nhiệm vụ. Đảng ta luôn coi phương pháp, tác phong
công tác khoa học, thiết thực, hiệu quả là một phẩm chất quan trọng không thể
thiếu của người cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một trong những
phẩm chất quan trọng của người cán bộ cách mạng là phải có phương pháp, tác
phong làm việc khoa học, thiết thực, hiệu quả”.
Lê Tiến Công
Mọi vấn đề phải cân nhắc thật kỹ, không nên chủ quan coi nhẹ
Trả lờiXóa