Ngay từ
năm 1963, sau khi nắm quyền trong Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Pol Pot đã
bắt đầu có thái độ, hành động thù địch đối với Việt Nam và những người cộng sản
Campuchia trung kiên. Chúng ngấm ngầm tuyên truyền Việt Nam đã phản bội
Campuchia khi ký Hiệp định Geneve 1954 và cho lưu hành hơn 10 văn kiện phê phán
Đảng Lao động Việt Nam khi Việt Nam không tán thành “đường lối cách mạng mạo hiểm”
của Pol Pot…
Năm 1966, Pol
Pot rút cơ quan đại diện bên cạnh Trung ương Cục miền Nam về nước và từ đó,
quan hệ của Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia càng có nhiều trắc trở.
Trong thời kỳ này, ở vùng Đông Bắc và Đông Campuchia, chính quyền Vương quốc thỏa
thuận cho Việt Nam đặt hậu cứ, kho tàng, trạm cứu thương… Lợi dụng điều kiện
vùng hành lang là khu vực rừng rậm, binh
lính Pol Pot lúc thì công khai, lúc thì đóng giả làm lực lượng của các phe nhóm
khác, đã cướp kho tàng, phục kích các nhóm hành quân lẻ của bộ đội Việt Nam.
Từ năm 1970 đến
1973, khi bộ đội Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và tay sai ở chiến trường
Campuchia thì lính Pol Pot đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ,
cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và chiến sĩ Việt Nam. Năm 1972,
Pol Pot công khai đề nghị Việt Nam rút quân về nước và có hành động xua đuổi Việt
kiều trong vùng vừa giải phóng. Khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết
tháng 1-1973, Pol Pot cho rằng việc ký hiệp định là sự phản bội của Việt Nam với
cách mạng Đông Dương và cho cấp dưới tuyên truyền, tổ chức các cuộc biểu tình
phản đối lực lượng Việt Nam đứng chân ở Campuchia.
Trước thái độ
thù địch của Pol Pot, tháng 7-1970, trong bức thư gửi cho Trung ương Cục miền
Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết: “Với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, chúng ta
cần tìm ra mọi cách tăng cường quan hệ, từng bước tạo ra sự nhất trí về đường lối,
chủ trương, đồng thời giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trên bước đường cùng
tiến lên của cách mạng, không tránh khỏi những sự khác nhau giữa ta và bạn.
Nhưng với đường lối đúng đắn, với tinh thần quốc tế chân chính, với thái độ
chân thành, tôn trọng bạn… sẽ xây dựng được tình đoàn kết chiến đấu ngày càng
sâu sắc giữa hai Đảng, nhân dân hai nước”(1).
Tuy nhiên, trái
với hy vọng của chúng ta, cách mạng Campuchia càng đến gần thắng lợi thì Pol
Pot càng ráo riết chuẩn bị kế hoạch chống phá Việt Nam và tiêu diệt lực lượng
yêu nước chân chính Campuchia. Ngay sau khi cách mạng hai nước giành thắng lợi
(tháng 4-1975), ngày 1-5-1975, tập đoàn Pol Pot đã cho quân xâm phạm nhiều nơi
thuộc lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh; tiếp đó đánh chiếm các đảo Phú
Quốc, Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết nhiều người dân và bắt đưa đi 515
người khác.
Sau những sự kiện
nghiêm trọng trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn bày tỏ mong muốn hai nước Việt
Nam và Campuchia đàm phán ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên tinh
thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục đoàn kết
và tăng cường tình nghĩa anh em giữa nhân dân hai nước. Song, do bản chất dân tộc
cực đoan, tập đoàn Pol Pot được sự hậu thuẫn bên ngoài tiếp tục có nhiều hành động
thù địch chống Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1975 và đầu năm 1976,
quân Pol Pot liên tiếp gây ra hơn 250 vụ xâm phạm lãnh thổ, cướp thóc gạo,
trâu, bò, tàn sát nhiều người dân Việt Nam.
Từ đầu năm 1977,
quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công vào các đồn biên phòng Việt Nam ở Bu Prăng
(Đắc Lắc), vùng Mỏ Vẹt (Long An) và một số nơi ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang.
Nghiêm trọng nhất là từ ngày 30-4 đến 19-5-1977, Pol Pot sử dụng lực lượng quy
mô sư đoàn tiến công sang đất Việt Nam trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang,
giết hại 222 người, làm bị thương 614 người, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà
dân, cướp 134 tấn lúa, phá hoại hàng trăm héc-ta lúa đang đến mùa gặt; cướp phá
nhiều tài sản của nhân dân...(2).
Tháng 6-1977,
lãnh đạo Khmer Đỏ ra nghị quyết coi Việt Nam “là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu”
của Campuchia và từ đây, chúng ngang nhiên mở rộng xung đột thành cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Mấy tháng cuối năm 1977, quân Pol Pot mở nhiều cuộc tiến
công lớn sang Việt Nam trên tuyến biên giới từ Kiên Giang đến Tây Ninh. Riêng tại
xã Tân Lập (Tân Biên, Tây Ninh), ngày 25-9-1977, quân Pol Pot đã đốt cháy 400
nóc nhà, giết hơn 1.000 dân thường.
Sau khi bị bộ đội
Việt Nam mở đòn tiến công trừng trị hành động xâm lược trên tuyến biên giới,
ngày 31-12-1977, tập đoàn Pol Pot đã đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với
Việt Nam. Từ đây, chúng công khai tuyên truyền vu khống Việt Nam, coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Campuchia, gắn quá trình phản
bội và xâm lược Việt Nam với các cuộc thanh trừng các lực lượng chân chính
trong nước.
Chúng ráo riết
xây dựng thêm các sư đoàn chiến đấu, đồng thời tập trung 13/18 sư đoàn bộ binh
áp sát biên giới Việt Nam, tiến hành khiêu khích, thăm dò, chuẩn bị những cuộc
tiến công xâm lược mới. Liên tiếp trong các tháng đầu năm 1978, Pol Pot sử dụng
5 sư đoàn chủ lực cùng 5 trung đoàn địa phương, có pháo binh yểm trợ, luân
phiên đánh vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt, tại xã Ba Chúc (Tri Tôn, An
Giang), cách đường biên giới Việt Nam-Campuchia 7km, ngày 18-4-1977, lính Pol
Pot đã dồn người dân hiền lành để bắn, giết tập thể bằng những hành động vô
cùng dã man, giết hại 3.157 người, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em,
trong đó có hơn 100 gia đình bị giết cả nhà.
Tính từ tháng
5-1975 đến giữa năm 1978, quân Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt
Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi hơn 20.000 người; hàng nghìn
trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, trâu, bò bị
cướp, giết, hoa màu bị phá hoại; hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở
vùng biên giới Tây Nam Việt Nam bị bỏ hoang; khoảng nửa triệu dân sát biên giới với Campuchia phải bỏ nhà, bỏ đất,
bỏ ruộng chạy sâu vào nội địa(3).
Hậu quả mà Pol
Pot gây ra cho nhân dân Việt Nam là hết sức to lớn, trong khi nguy cơ diệt vong
của dân tộc Campuchia dưới chế độ diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot đã đến
mức nguy kịch. Những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol
Pot là không thể dung tha. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân
tộc cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, quân đội và
nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình
để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản
của nhân dân; đồng thời cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh
đổ chế độ diệt chủng, giúp đỡ những người cách mạng chân chính Campuchia làm lại
cuộc cách mạng đã bị phản bội.
(1) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1985, tr. 234-235.
(2) Số liệu về quân đội Campuchia
vi phạm biên giới Việt Nam từ năm 1975, Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông 82, Đơn vị bảo quản 2325.
(3) Báo cáo về việc lực lượng vũ
trang Campuchia tấn công ta ở biên giới, Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ
Quốc phòng, Hồ sơ 1172.
Những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot là không thể dung tha
Trả lờiXóa