Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

GÓP PHẦN LÀM RÕ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH VỀ TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nhiều tôn giáo khác nhau cùng tồn tại. Chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã lên tới hơn 20 triệu người, xấp xỉ 25% dân số nước ta. Theo suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các tôn giáo luôn nêu cao tinh thần đại đoàn kết, đấu tranh với “thiên tai, địch họa”, có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định: vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, nguồn sức mạnh to lớn bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quan điểm nhất quán của Đảng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với nước ta.  Vì vậy, việc nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
 Quan điểm này thể hiện sự đổi mới quan trọng của Đảng trong nhận thức về vấn đề tôn giáo từ góc độ đến thái độ tiếp cận. Trước đây, tôn giáo thường tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị với hai định nghĩa mang tính kinh điển: "tôn giáo là hình thái ý thức xã hội" "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đó là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan điểm mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Bởi vì, tôn giáo không chỉ là triết học và không chỉ là vấn đề chính trị mà tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Với nhận thức đó, Đảng ta không chỉ bó hẹp tôn giáo trong khuôn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà còn khẳng  định rõ thái độ của những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân quyền, dân chủ, vv…
Từ quan điểm "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" do Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (1990) nêu ra, đến Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới, khẳng định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại đến khi nào.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX xác định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.”[1].
Quan điểm nêu trên của Đảng đã góp phần khơi dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tô quốc"[2].
Ba là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Trên cơ sở nhất quán đường lối tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật.
Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta ngày càng được mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện những vấn đế phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh. Cùng với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị - xã hội mà còn bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.48 - 49.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.245.  

1 nhận xét: