Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

Bản chất của luận điểm “Muốn Việt Nam thực sự dân chủ và phát triển, cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”


Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đẩy mạnh việc tuyên truyền cho một luận điểm phá hoại tư tưởng đó là chỉ có thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì Việt Nam mới có dân chủ, xã hội Việt Nam mới có thể phát triển sánh kịp với các quốc gia khác trên thế giới. Và ngược lại, nếu vẫn duy trì chế độ một đảng thì sẽ đồng nghĩa với độc tài, sẽ cản trở quá trình phát triển của đất nước.
 Có thể thấy rằng, đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó cổ súy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Việc nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác, thuyết phục, vạch rõ những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của chế độ hiện nay.
Trước hết cần làm rõ, Việt Nam hiện nay có cần thiết phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không? Câu trả lời là không. Xuất phát từ mấy điểm sau:
Một là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của toàn thể nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam, giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cả nước ta chìm trong lầm than nô lệ của thực dân Pháp. Nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái nhưng lần lượt thất bại. Việc tìm kiếm con đường cứu nước của các chí sĩ tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... đều rơi vào bế tắc. Trong bối cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Người đã có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị điều kiện tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc ra đời của Đảng Cộng sản. Cũng chính nhờ sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam mà phong trào công nhân và phong trào yêu nước có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dẫn tới sự hình thành các tổ chức cộng sản. Sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn tiếp tục thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, nhưng cũng đặt ra một yêu cầu bức thiết rằng, cần phải hợp nhất ba tổ chức thành một tổ chức thống nhất để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Và sự ra đời của Đảng Cộng sản sau Hội nghị hợp nhất ngày 03-02-1930 dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là một tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử đất nước.
 Giai đoạn từ 1930-1945, lịch sử Việt Nam chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản chứ không có bất kỳ tổ chức, đảng phái chính trị nào lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là công lao của Đảng Cộng sản. Đến năm 1946, do bối cảnh tình hình chính trị lúc đó, tại Việt Nam ngoài Đảng Cộng sản, xuất hiện thêm hai đảng khác là Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Tuy nhiên, về thực chất lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn chỉ có Đảng Cộng sản, còn hai đảng Việt Quốc và Việt Cách “theo đuôi Tưởng” không hề đứng về lợi ích dân tộc. Cho đến khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng ra đi theo quân Tưởng, trên vũ đài chính trị chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự xuất hiện và rút lui của hai đảng Việt Cách và Việt Quốc cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản là được nhân dân và lịch sử Việt Nam lựa chọn, còn những đảng phái không đứng về nhân dân đã bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ. Thời kỳ sau đó, bên cạnh Đảng Cộng sản cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sau đó tuyên bố tự giải thể vì đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
 Thật vậy, Việt Nam đã từng có chế độ đa đảng, nhưng chính lịch sử và nhân dân Việt Nam đã phủ định chế độ đó. Thực tế đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ và không bao giờ tự ban cho mình quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, mà vai trò đó là nhiệm vụ cao cả mà nhân dân Việt Nam tin tưởng giao phó. Ngay từ khi thành lập cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, trung thành với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đây là sự lựa chọn của lịch sử.
 Hai là, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đưa đất nước phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đường lối lãnh đạo đúng đắn, đã đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Năm 1945, chỉ 15 năm sau ngày thành lập với khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn thể nhân dân làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám lịch sử, lật đổ ách áp bức của thực dân phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Sau đó, Đảng lại lãnh đạo nhân dân làm nên hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tạo ra những chiến thắng vang dội địa cầu và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước. Với đường lối đổi mới đúng đắn, Đảng đang lãnh đạo toàn dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, trở thành một quốc gia đang phát triển năng động, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, uy tín, vị thế Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam cũng là điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển mạnh mẽ, vì thế không cần thiết phải thực hiện đa nguyên, đa đảng.
 Ba là, dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng và thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với sẽ có dân chủ và phát triển.
Dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi nhà nước xuất hiện và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định về quyền công dân, nó tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn lịch sử tương ứng. Trong phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác viết: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa, xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Mỗi nước có những đặc thù và trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, lịch sử,... khác nhau, do đó có nền dân chủ khác nhau. Chính những yếu tố đó quy định dân chủ chứ không phải là cơ chế đa nguyên, đa đảng hay một đảng. Quan điểm cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.
Thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với việc sẽ có dân chủ, với việc sẽ đưa đất nước phát triển. Thực tiễn, nhiều nước đã chứng minh rằng, có những nước đa đảng nhưng vẫn thuộc loại nghèo nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo nhưng vẫn là nước rất phát triển với đời sống nhân dân sung túc. Điều đó có nghĩa là đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho sự phát triển. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ không phải là đa đảng hay một đảng lãnh đạo mà quan trọng nhất đó là đường lối lãnh đạo đúng đắn của đảng cầm quyền. Và như đã khẳng định, tại Việt Nam hiện nay, với đường lối lãnh đạo sáng suốt, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đang đưa đất nước phát triển, người dân cả nước đều được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, dân chủ vẫn đang được mở rộng và nhân quyền của người dân luôn được đảm bảo. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc là một trong những minh chứng điển hình cho vấn đề Việt Nam có dân chủ, nhân quyền hay là không.
 Hơn nữa, cần phân biệt rõ giữa đa đảng, đa nguyên với đa đảng, nhất nguyên. Một số người, kể cả cán bộ, đảng viên mơ hồ vẫn thường lấy thể chế chính trị của Mỹ để ca ngợi cho tính ưu việt của mô hình đa nguyên, đa đảng. Ấy thế nhưng, nếu tìm hiểu kỹ thấy rõ một điều rằng, ở Mỹ chỉ có hai đảng thay nhau lãnh đạo xã hội Mỹ, đó là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Về bản chất, đây đều là đảng của giai cấp tư sản. Vậy thực chất nền chính trị Mỹ là đa đảng nhưng nhất nguyên chứ không phải đa đảng, đa nguyên như nhiều người nhầm tưởng. Tương tự như thế, ở một số nước tư bản phương Tây khác, mặc dù Đảng Cộng sản có thể được cho tồn tại nhưng nếu giai cấp tư sản cảm nhận thấy sự tồn tại đó có khả năng uy hiếp, đe dọa đến sự lãnh đạo, thống trị xã hội của họ thì ngay lập tức, Đảng Cộng sản đó sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

 Tóm lại, vì nhiều lý do, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy, luận điểm muốn mở rộng dân chủ và phát triển xã hội, Việt Nam phải thực hiện đa nguyên, đa đảng là một luận điểm sai trái. Việt Nam hiện nay không cần thiết phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Với sự cố gắng nỗ lực của toàn dân, toàn quân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

1 nhận xét:

  1. Các thế lực thù địch luôn cổ súy cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, với động cơ chính trị đen tối, đó là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì vậy chúng ta phải cảnh giác

    Trả lờiXóa