Mỹ
là một quốc gia có nhiều đảng phái, nhưng từ sau năm 1854 đến nay, chỉ có hai đảng
lớn là Dân chủ và Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Hệ thống lưỡng đảng đã bắt rễ
sâu trong nền chính trị Hoa Kỳ và cho dù có đảng thứ ba xuất hiện trong các cuộc
bầu cử Tổng thống cũng chưa bao giờ giành được chiến thắng. Các đảng khác đôi
khi đã giành được một số chức vụ trong chính quyền cấp dưới, nhưng hầu như
không có vai trò quan trọng. Cơ chế pháp lý và chính trị của Mỹ có những biện
pháp duy trì ưu thế của hai đảng Dân chủ, Cộng hòa và ngăn một đảng thứ ba cạnh
tranh trên quy mô toàn quốc. Về bản chất, chế độ đa đảng trong nền chính trị Mỹ
do đồng tiền chi phối luôn luôn là sự thống trị của một nhóm các tập đoàn quyền
lực. Bầu cử "tự do” nhưng quá
trình vận động bầu cử tốn kém dẫn đến thực tế là chỉ những ai giàu có hoặc được
các tập đoàn tư bản lớn ủng hộ thì mới có khả năng trở thành ứng cử viên thật sự.
Và do đó, quyền lựa chọn của nhân dân luôn bị giới hạn trong phạm vi các ứng cử
viên của các nhóm thiểu số lớp trên. Hoạt động vận động hành lang hết sức tốn
kém cũng là kênh để các tầng lớp giàu có tác động, chi phối chính sách. Thông
qua các khoản tài trợ, các thế lực giàu có cũng sử dụng đồng tiền để can thiệp,
chi phối không ít tổ chức dân sự để phục vụ lợi ích của họ. Hệ thống pháp lý phức
tạp, và tinh vi cũng khiến cho người nghèo ở Mỹ ít được bảo vệ, nhất là do không
đủ tiền để thuê luật sư giỏi. Tự do báo chí gắn liền với tư nhân hóa báo chí,
thực tế chỉ là tự do của chủ báo, của một số người giàu có sở hữu các phương tiện
truyền thông. Vì vậy, sau hình thức
"tự do" của báo chí, nhiều
vấn đề bản chất của xã hội, lợi ích của cộng đồng luôn bị bỏ qua, báo chí vẫn
là công cụ chi phối nhận thức chung nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trên
thực tế, về bản chất, chế độ đa đảng trong nền chính trị do đồng tiền chi phối
luôn luôn là sự thống trị của một nhóm các tập đoàn quyền lực. Ralf Nader -
nguyên ứng cử viên Tổng thống độc lập tại Mỹ, từng công nhận "chế độ đa đảng của Mỹ về thực chất là chế độ
hai đảng, nhưng cuối cùng thì các tập đoàn tư bản thao túng cả hai".
Tại Mỹ, quyền lực được quay vòng trong một nhóm các
gia đình quyền thế. Người dân có thể có một số tự do, nhưng trong giới hạn bảo
đảm sự thống trị của giai cấp tư sản; về hình thức thì mọi người có thể đều có
quyền nhưng việc thực thi các quyền đó lại phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh
tế, tài chính. Do đó, chỉ có tầng lớp giàu có mới thật sự có đầy đủ các quyền tự
do. Kinh tế thị trường gắn với chính trị
thị trường đã làm cho sức mạnh kinh tế kết hợp với sức mạnh chính trị tập trung
vào các tập đoàn tư bản đầu sỏ. Do đó, tuy nhân dân lao động là bộ phận chiếm số
đông trong xã hội nhưng có rất ít đại diện đích thực cho lợi ích của họ tại quốc
hội. Ðiều này lý giải tại sao khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ lại không ngừng gia
tăng, bạo lực tràn lan. Ðó cũng là một lý do dẫn tới sự ra đời của phong trào
"chiếm phố Uôn" - hành động
của 99% số dân Mỹ chống lại 1% giàu có với các cuộc xuống đường phản đối bất
công. Cũng vì thế mà ngày càng có nhiều cử tri tại các nước này bày tỏ thất vọng
đối với các cuộc bầu cử đã không thể đem lại được sự thay đổi tình hình một
cách thực chất. Ngay sau khi bầu cử, người dân Mỹ biểu tình chống ông Trump ở
nhiều thành phố trên nước Mỹ, như: New York , Chicago , Los Angeles , Philadelphia , Boston , Seattle ... Hàng nghìn người,
trong đó có nhiều học sinh, sinh viên tham gia biểu tình đông đảo. Người biểu
tình giơ biểu ngữ "Ông ta không phải
Tổng thống của tôi".
Tại Mỹ, quyền lực được quay vòng trong một nhóm các gia đình quyền thế. Người dân có thể có một số tự do, nhưng trong giới hạn bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản
Trả lờiXóa