Trên không gian mạng hiện nay, khi nói
đến vấn đề Quân đội tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế đất nước còn
có luồng dư luận cho rằng: “Quân đội không nên làm việc đó mà tập trung vào nhiệm
vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu”. Thoáng qua, loại ý kiến này có lý, nhưng
xét từ bản chất, truyền thống của Quân đội ta thì ý kiến đó không phù hợp. Bởi,
nếu chỉ tập trung vào nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu (vẫn biết rằng đây
là nhiệm vụ chủ yếu và nòng cốt của Quân đội) thì không tận dụng được nguồn vật
chất kỹ thuật mà Quân đội đang quản lý còn nhàn rỗi để tham gia phát riển kinh
tế - xã hội; dẫn tới tiềm lực vật chất quốc phòng sẽ suy giảm, gánh nặng ngân
sách nhà nước chi cho quốc phòng sẽ tăng nhanh chóng, ảnh hưởng tới nợ công và
nền kinh tế nước ta. Đồng thời, không rèn luyện và phát huy được tay nghề của đội
ngũ cán bộ, nhân viên ở những đơn vị quân đội có khả năng tham gia lao động sản
xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Thực tế cho thấy, cơ sở vật chất quốc phòng của bất kỳ quốc
gia nào đều tồn tại ở 2 dạng là dự trữ trong Quân đội (dự trữ nóng) và dự trữ
tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân (khi cần có thể huy động). Việc dự trữ
nóng tuy dễ dàng sử dụng khi có tình huống quốc phòng nhưng rất tốn kém do phải
mua, cất chứa và bảo trì. Đơn cử, để có 100 chiếc trực thăng vận tải loại
EC-225, Nhà nước phải đầu tư 10.000 tỷ đồng mua trang bị, chi phí cất chứa và bảo
đảm kỹ thuật cho một vòng đời máy bay (khoảng 20 năm) ít nhất là 600 tỷ (khoảng
6% giá trị trang bị), khiến tổng chi phí sẽ là 10.600 tỷ đồng. Như vậy, chi phí
cho toàn bộ hệ thống trang thiết bị quân sự sẽ cao hơn rất nhiều.
Nếu cơ sở vật chất quốc phòng được dự trữ trong nền kinh tế,
như: ôtô, tàu thuyền, các cơ sở sản suất, cảng biển,… sẽ ít tốn kém do chỉ phải
chi phí về công tác đăng ký quản lý; nhưng tỷ lệ trang bị ảo rất cao, khả năng
huy động chậm, tài sản cố định hữu hình bị khấu hao nên dự trữ kỹ thuật không
đúng theo dự kiến. Do vậy, phần lớn các nước chọn giải pháp kết hợp giữa 2 loại
hình dự trữ này để củng cố vật chất quốc phòng. Ở Việt Nam, kế thừa và phát huy
kinh nghiệm truyền thống, Đảng ta chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng là
vấn đề cốt lõi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Để bảo đảm
trang bị, vật chất cho bất kỳ tình huống nào thì Quân đội cần phải nắm một số
cơ sở vật chất quan trọng đủ để phục vụ chiến đấu trong những ngày đầu chiến
tranh. Trừ các loại vũ khí, trang bị bắt buộc phải dự trữ nóng thì những trang
bị có tính chất lưỡng dụng, như: thông tin - viễn thông, vận tải, gia công cơ
khí, xây dựng,… rất cần thiết phải đưa ra làm kinh tế vì các lý do:
Tận
dụng công suất dư thừa để phục vụ nền kinh tế.
Các hệ thống trang bị có thể phục vụ cho quốc phòng và sản
xuất hàng quốc phòng sẽ không có bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào dám đầu tư, vì: dây chuyền máy móc rất đắt tiền; chuyển giao công nghệ
và đào tạo nhân lực tốn kém; bảo trì, sửa chữa khó khăn; không bao giờ hoạt động
hết công suất trong thời bình (lắp đặt dự trữ công suất cho thời chiến),… khiến
việc thu hồi vốn là không thể. Vì vậy, khi Nhà nước đã đầu tư thì các đơn vị quốc
phòng cần tận dụng công suất dư thừa để sản xuất các mặt hàng dân dụng, như:
Bao bì, hòm hộp, các chi tiết máy móc, sản phẩm nhôm, inox, cao su; cung cấp
các dịch vụ sửa chữa,… góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Giúp
chuyển giao công nghệ, đào tạo và duy trì nguồn nhân lực.
Công nghệ quân sự là bí quyết của mỗi quốc gia, nó chỉ được
chuyển giao khi có cái mới thay thế. Quá trình chuyển giao khá lâu dài do phụ
thuộc lộ trình hợp tác giữa Chính phủ các nước; dẫn tới chỉ có Nhà nước mới có
khả năng tiếp nhận công nghệ quân sự từ nước ngoài, đào tạo nhân lực ban đầu để
khai thác các hệ thống thiết bị quân sự đã đầu tư. Để duy trì, nâng cao chất lượng
và mở rộng nguồn nhân lực trên lĩnh vực đó, Bộ Quốc phòng phải cho các đơn vị nắm
giữ công nghệ tham gia quá trình sản xuất thương mại các sản phẩm công nghiệp
nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp
ngoài Quân đội; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đó có thể sản xuất hàng cung
cấp cho quốc phòng khi có yêu cầu; đặc biệt là các mặt hàng có yêu cầu hàm lượng
khoa học cao, như: điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hoá chất, đóng tàu v.v.
Nâng
cao số lượng, chất lượng và khả năng chiến đấu của trang bị, đẩy mạnh
nghiên cứu, sản xuất thiết bị quân sự.
Bằng việc kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ phục vụ xã hội,
các doanh nghiệp quân đội đã thu được nguồn vốn không nhỏ; không những có thể
bù chi phí bảo trì máy móc và hao phí tài sản cố định, mà còn đủ để tái đầu tư
nâng cấp, mở rộng hệ thống trang bị, nghiên cứu sản xuất nhiều sản phẩm phục vụ
quốc phòng và xã hội. Đơn cử, tập đoàn Viettel khi mới thành lập (năm 1989) chỉ
hoạt động xây dựng các công trình viễn thông (ăng ten, tuyến vi-ba, cáp
quang,…); sau đó cung cấp thêm các dịch vụ điện thoại cố định, VoIP quốc tế,
truy cập Internet; tiến tới cung cấp các dịch vụ di động, viễn thông. Hiện nay,
Viettel đã cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng viễn thông ở 9 quốc gia với hơn 60
triệu thuê bao trên toàn cầu; nâng cấp mạng điện thoại quân sự từ tổng đài thủ
công thành tự động, trang bị điện thoại quân sự 6 số đến cấp đại đội trong toàn
quân. Đặc biệt, Viettel triển khai lắp đặt hơn 300 điểm cầu truyền hình cho các
đơn vị quân đội trong cả nước,… góp phần nâng cao khả năng chỉ huy và sức mạnh
sẵn sàng chiến đấu của Quân đội. Bên cạnh việc sản xuất các thiết bị di động
giá rẻ cung cấp cho thị trường, Tập đoàn còn nghiên cứu sản xuất thành công nhiều
thiết bị quân sự, như: máy điện thoại cố định, máy vô tuyến điện VRU-25, hệ thống
thông tin di động,… nhất là các thiết bị có hàm lượng công nghệ cao, như:
ra-da, thiết bị bay không người lái, góp phần tự chủ hóa hệ thống vũ khí trang
bị của Việt Nam.
Những đóng góp của các công ty, doanh nghiệp quân đội cho nền
kinh tế và nền quốc phòng toàn dân là rất to lớn, khó đong đếm được. Nhưng cơ sở
vật chất quốc phòng được nâng cao là nhờ Quân đội tham gia sản xuất, phát triển
kinh tế - xã hội./.
Các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng các vấn đề chính trị, xã hội nhạy cảm, phức tạp, thu hút sự quan tâm để tuyên truyền, kích động chống Đảng, Nhà nước. Vì vậy chúng ta phải đề cao cảnh giác.
Trả lờiXóa