Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017

MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ ĐEN TỐI CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG LỢI DỤNG QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA NHÂN DÂN

                                                                      
Việc khiếu kiện của người dân là vấn đề bình thường của mọi quốc gia, chứ không phải cứ người dân đi khiếu kiện lại gọi là “dân oan” như những kẻ thiếu thiện chí đặt cho họ. Những người dân khiếu kiện tập trung trước các cơ quan nhà nước ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, chắc chắn ít hơn nhiều so với số người biểu tình ở Washington, thậm chí ngay trước Nhà trắng ở Mỹ. Nhưng vì sao những kẻ này lại “quan tâm” đến chuyện khiếu kiện ở Việt Nam như vậy?
Thời gian qua, hoạt động khiếu nại, tố cáo ở nước ta luôn được tôn trọng, được bảo đảm, đồng thời phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật. Sự thật là, một số đối tượng xấu, thù địch, phản động lợi dụng chính nỗi bức xúc của người dân để trà trộn, lôi kéo, kích động người dân khiếu kiện. Cùng với sự “hà hơi tiếp sức” của bọn phản động ở hải ngoại cung cấp tiền, trang bị điện thoại di động, các phương tiện để thường xuyên liên lạc với chúng, cung cấp những thông tin “ít xuýt ra nhiều”, hoặc các bài “phỏng vấn” đổi trắng thay đen một cách trơ trẽn, nhằm thực hiện mưu đồ gây rối, gây bao loạn, khi có thời cơ chúng thực hiện “cuộc cách mạng màu” lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thực chất vấn đề đơn thư khiếu kiện của một số công dân phản ảnh những vụ việc bức xúc, kéo dài mà không được giải quyết liên quan đến chế độ người có công, sở hữu đất đai, tố cáo cán bộ địa phương vi phạm… Song ở một vài vụ việc, người đứng đơn còn liên tiếp tung lên mạng xã hội những bài viết bức xúc, thậm chí có phần quy kết chính quyền một cách thiếu căn cứ. Thế nhưng sau đó, các trang mạng xã hội và trang web ở nước ngoài liên tiếp đăng tải, chia sẻ các đơn, thư, bài viết của người dân. Có những kẻ tự xưng là “luật sư”, “nhà dân chủ” liên hệ với người dân và hứa hẹn sẽ sẵn sàng giúp đỡ, tư vấn, đăng tải… Họ ca ngợi những người đứng đơn là dũng cảm, thậm chí còn gửi thư, ngoài bì thư phong cho một nữ công dân là “anh hùng” dù cô mới chỉ có một bài viết bày tỏ nỗi bức xúc của mình trên trang cá nhân. Họ còn “vẽ đường cho hươu chạy”, kích động người dân làm băng rôn, khẩu hiệu, tụ tập đông người kéo đến các cơ quan pháp luật gây sức ép thì mới thành công. Nguy hiểm hơn, nhiều người dân bị kích động quá khích đã bao vây trụ sở, bắt giữ người trái phép là vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có thể bị điều tra, truy tố, xét xử đã được Bộ luật Hình sự quy định rõ. Pháp luật cho phép người dân được quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo; việc kiến nghị, khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện bằng đơn, bằng văn bản và phải tập hợp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đây là một cách tốt nhất để người dân bị xâm hại thực hiện quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhân.
Người dân không nên nghe theo sự xúi giục của kẻ xấu, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan chức năng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nếu không cảnh giác, người dân còn có thể vô hình trung vi phạm pháp luật nghiêm trọng hơn khi tiếp tay cho các thế lực phản động. Người dân cũng cần phân biệt việc kiến nghị giải quyết các vướng mắc, bức xúc về quyền lợi không liên quan đến các phong trào kêu gọi “dân chủ, nhân quyền”, chống phá Đảng, Nhà nước mà các đối tượng xấu kêu gọi, kích động, xúi dục.

Cùng với việc nêu cao tinh thần cảnh giác thì mỗi người cũng cần phải nâng cao hiểu biết pháp luật, xây dựng nếp sống thượng tôn pháp luật, tôn trọng các cơ quan công quyền, cơ quan bảo vệ pháp luật; đấu tranh với những hành vi sai trái, bảo vệ quyền lợi của mình nhưng phải đúng pháp luật. Không thể vì sự bức xúc mà thiếu bản lĩnh, chủ quan, để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân để kích động chống phá Nhà nước, gây rối trật tự công cộng. Cần phải có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn những kẻ đang kích động, lợi dụng những người dân khiếu kiện để “đục nước béo cò”. Đồng thời các cơ quan chức năng cần phải nêu cao trách nhiệm, làm tròn chức trách nhiệm vụ của mình, giải quyết có trách nhiệm và thỏa đáng những vướng mắc, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân; không để tồn tại nhiều kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng, chống phá./.

LẬT TẨY THỦ ĐOẠN CỦA CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG LỢI DỤNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Đấu tranh phòng chống tham nhũng không chỉ riêng có ở bất cứ một quốc gia, một đảng phái chế độ chính trị nào, mà là vấn đề diễn ra ở tất cả các quốc gia dân tộc phạm vi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các đối tượng phản động núp danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” lợi dụng triệt để vấn đề tham nhũng ở nước ta để xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Tạo ra sự hoài nghi trong nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vây, việc nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn của các phần tử phản động là vấn đề rất cần thiết.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta đạt được nhiều kết quả quan trọng, một số quan chức nhà nước, quan chức các doanh nghiệp nhà nước, từ sản xuất kinh doanh đến tài chính ngân hàng… lần lượt bị kỷ luật, bị khởi tố, bắt giam hoặc bị kỷ luật tước hết các chức vụ. Đặc biệt, trong số đó có cả cán bộ cấp cao ở trung ương nắm giữ những vị trí quan trọng của nền kinh tế của đất nước. Những người này, họ “chạy chọt, luồn lách, leo cao, chui sâu” vào bộ máy nhà nước, dùng quyền lực tham ô tham nhũng, với số tiền lớn trong thời gian dài. Các cơ quan chức năng đã phát hiện những vụ việc tham nhũng này, hạn chế được thiệt hại về vật chất, tiền của nhà nước lấy lại niềm tin của người dân.
Tuy nhiên, trên những trang mạng xã hội facebook, blog… do các đối tượng xấu, thế lực phản động đăng tải các luận điểm xuyên tạc về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng, Nhà nước ta.
Trên những trang mạng này, các đối tượng, phần tử xấu có tư tưởng phản động đã rêu rao những nội dung đại loại như: “đang có cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng”, “cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”, rồi “tăng cường phòng, chống tham nhũng chỉ là chiêu trò mị dân”, “chống tham nhũng chỉ là hô khẩu hiệu” v.v...
Thông qua những bài viết cực đoan, suy diễn không đúng bản chất về vấn đề tham nhũng ở nước ta, số phần tử xấu này còn bôi nhọ, xuyên tạc chế độ chính trị xã hội ở nước ta chúng dựng lên một hình ảnh một Việt Nam toàn gam màu xám. Thông qua đó, phủ nhận những nỗ lực, sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà Đảng, Nhà nước ta.
Một số đối tượng, phần tử xấu lợi dụng triệt để thông tin một vài vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ, đảng viên đã bị đưa ra ánh sáng pháp luật nhằm suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm rồi cho rằng tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là hệ quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những trang thông tin nhảm nhí, xuyên tạc thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay trên các trang mạng xã hội do các thế lực thù địch, phản động ngụy tạo ra, sẽ không khó để nhận ra những âm mưu thâm hiểm đi kèm. Đó chính là sự xúi giục, âm mưu kích động nhân dân ta đứng lên đòi thay đổi cương lĩnh, thể chế chính trị, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển xã hội ta sang một xã hội “đa nguyên, đa đảng”.
Hơn lúc nào hết, chúng ta hãy phát huy ý chí, bản lĩnh và truyền thống của một dân tộc anh hùng, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng lật tẩy và đập tan những âm mưu thủ đoạn của các phần tử xấu, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã lựa chọn hơn 70 qua.


Nhận diện âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trên mạng internet


Có thể nói rằng chưa bao giờ các thế lực phản động lại ráo riết, điên cuồng chống phá ta như thời điểm này. Thể hiện rõ nhất là chúng tung lên mạng với số lượng rất lớn thông tin sai trái, thù địch; nhất là từ khi Đảng ta chủ trương lấy ý kiến nhân dân góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến Pháp năm 2013, dự thảo các văn kiện Đại hội XII, đặc biệt là trước và trong thời gian diễn ra Đại hội XII sắp tới. Tân đại sứ Mỹ tại Việt Nam Tét ô-xi-ớt xác định năm 1015-2016 là giai đoạn “bản lề” gia tăng các hoạt động nhằm tăng cường quan hệ hợp tác Mỹ - Việt, thúc đẩy thẩm thấu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Việt Nam; chủ động đưa ra “lộ trình” và các đề nghị hợp tác nhằm thúc đẩy quan hệ trên lĩnh vực Quốc phòng, an ninh với Việt Nam. Bên cạnh đó, các tổ chức phản động người Việt hải ngoại và các phần tử cơ hội chính trị chống đối ở trong nước tăng cường truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam trên các báo điện tử, trang tin điện tử, blog cá nhân.
Tính chất phản động, mục tiêu chống phá thể hiện rõ ở một số nội dung trọng điểm như: xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, thân thế sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh; bôi nhọ nhân sự cấp cao và chia rẽ đoàn kết nội bộ nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Do đặc thù của internet là tốc độ truyền thông tin nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, tính “tự do” tương đối của những chủ thể thông tin, khả năng “gây nhiễu” lại khá rộng... nên những quan điểm sai trái trên mạng internet có khả năng ảnh hưởng nhanh, rộng đến nhiều đối tượng. Thực tế cho thấy thời gian qua không ít thông tin trên mạng đã gây hoài nghi, hoang mang trong xã hội, nhất là một bộ phận trí thức và thanh niên - đối tượng thường xuyên tiếp cận với phương tiện này. Cũng từ đó, một trong những hệ quả nguy hiểm của thủ đoạn này là gây mất phương hướng, sa sút niềm tin, làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.


MỘT LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG, THÂM ĐỘC

                                                                   
Trong một đất nước thượng tôn pháp luật như nước ta thì hành vi: bắt, giữ và giam người trái pháp luật; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản là những hành vi vi phạm pháp luật không thể chấp nhận được. Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu các hoạt động điều tra. Việc khởi tố là nhằm điều tra, làm rõ những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong vụ việc. Quá trình điều tra, tùy thuộc việc phát hiện hành vi cấu thành tội phạm hay không, trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng mới có đủ căn cứ xem xét để ban hành hoặc không ban hành quyết định khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự các bị can liên quan.
Ấy vậy mà, gần đây có nhiều thế lực phản động, lợi dụng quyết định khởi tố vụ án hình sự của Công an Thành phố Hà Nội liên quan đến việc bắt giữ 38 người thi hành công vụ tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, Mỹ Đức) để điều tra về 2 tội danh: bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo điều 123 Bộ Luật hình sự và hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 143 Bộ Luật hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội để vu khống, cho rằng Đảng chẳng hề quan tâm đến người dân Đồng Tâm…. Những luận điệu trên là rất thâm độc, nó không chỉ kích động một bộ phận nhân dân xã Đồng Tâm có hành vi chống đối lại chính quyền, tiếp tục gây mất ổn định tại địa phương, mà sâu xa hơn là phá hoại mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Vụ việc khởi tố vụ án hình sự liên quan đến việc bắt giữ 38 người thi hành công vụ tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, Mỹ Đức)  là bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Điều này là bình thường, theo đúng với tiến trình tố tụng của pháp luật Việt Nam, không giống như những lời tô vẽ, thổi phồng của các thế lực phản động đưa ra. Những lời lẽ tuyên truyền xuyên tạc đó chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu này.


Cảnh giác với thủ đoạn xuyên tạc thông tin


Xuyên tạc thông tin nhằm làm sai lệch bản chất của sự việc, hiện tượng là việc làm thường xuyên của một nhóm người thuộc diện trục lợi hoặc thù địch với cách mạng Việt Nam. Họ thường dựa vào một số sự việc xảy ra trong đời sống xã hội để tìm cách thêm thắt, dắt dây, thổi phồng sự việc, làm sai lạc hoàn toàn bản chất của sự việc. Thủ đoạn này vốn không mới nhưng thực sự nguy hại, bởi nó làm cho môi trường thông tin trở nên lẫn lộn trắng-đen, thật-giả khó phân biệt.
Những ngày gần đây trên một số trang báo mạng và mạng xã hội rộ lên những thông tin như: “Chính phủ Đức dừng cấp thị thực (visa) cho công dân Việt Nam”; “người dân Hải Dương phản đối công ty gây ô nhiễm môi trường, xảy ra xô xát với cảnh sát”; “lãnh đạo Đà Nẵng bị kỷ luật”... Trước hết, cần phải xác định rằng những thông tin nêu trên có một phần sự thật và đã được các cơ quan chức năng giải đáp rõ ràng. Chẳng hạn, ngay sau khi trên mạng tán phát thông tin “Chính phủ Đức tạm dừng cấp thị thực cho công dân Việt Nam” một ngày, Đại sứ quán Đức đã ra thông báo chính thức cải chính thông tin và giải thích là do hệ thống làm thủ tục cấp thị thực bị quá tải nên thời gian chờ đợi có thể sẽ kéo dài hàng tuần. Vì thế, Đại sứ quán Đức khuyên những công dân Việt Nam có kế hoạch sang Đức cần chủ động liên hệ, đặt kế hoạch với Đại sứ quán, hoặc Tổng lãnh sự Đức tại TP Hồ Chí Minh để được đáp ứng yêu cầu về thị thực. Những người Việt Nam đang sống trên đất Đức cũng khẳng định đó là “tin vịt”, bởi họ không hề nhận được một thông báo nào về việc Chính phủ Đức dừng cấp thị thực cho công dân Việt Nam. Hoặc thông tin về việc kỷ luật hai cán bộ chủ chốt của TP Đà Nẵng cũng đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông báo rất rõ ràng về tính chất, mức độ vi phạm của từng cán bộ. Ấy thế nhưng sự việc trên lại được một số người tự nhận là “đấu tranh cho dân chủ” thêu dệt trong các cuộc bàn luận kiểu “tọa đàm”, sau đó dựng thành clip tán phát trên một số trang báo mạng vốn thiếu thiện cảm với Việt Nam. Nghe các cuộc “tọa đàm” này mới thấy sự nham hiểm và trắng trợn của những người có nghề bịa đặt và xuyên tạc thông tin. Họ cứ kẻ tung người hứng, dẫn dắt người nghe từ những sự việc bình thường, có thật (như việc kỷ luật cán bộ tại Đà Nẵng) đến những suy luận mà họ cho là logic theo ý chí chủ quan của họ. Trong thông tin về kỷ luật cán bộ tại Đà Nẵng, sau một hồi suy luận, đưa đẩy thì họ cho rằng “đây là sự đấu đá nội bộ trước Hội nghị Trung ương 6”. Trên thực tế, việc kiểm tra (đối với các đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm) và thi hành kỷ luật Đảng (đối với các đảng viên vi phạm) là một việc làm thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được tiến hành liên tục, rộng rãi từ Ban Chấp hành Trung ương tới chi bộ suốt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay. Việc kỷ luật một đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng là việc làm tất yếu để làm trong sạch nội bộ Đảng. Thế cho nên chỉ những kẻ mang mưu đồ trục lợi (về kinh tế, hoặc chính trị) lại chuyên nghề “thọc gậy bánh xe” mới có thể suy luận thiếu căn cứ, rồi quy kết một cách bừa bãi hòng đánh lừa dư luận.
Xem xét các thông tin mà một nhóm người chuyên tạo dựng và được hỗ trợ bởi một số trang báo mạng thì thấy: Thứ nhất, hầu hết các thông tin đều ở dạng “mập mờ”, thiếu căn cứ, nên người đọc có muốn kiểm chứng cũng khó. Chẳng hạn như trong thông tin “người dân xã Lai Vu (huyện Kim Thành) xô xát với công an Hải Dương” ngày 25-9, một trang báo mạng đưa ra một số nhân vật kiểu như “một người tên là S. cho biết”, hoặc “một người tên là Y. nói rằng...” tức là tất cả nhân vật đều ở dạng phiếm chỉ, không rõ ràng tên họ, địa chỉ, nói bao giờ. Trên thực tế, đúng sáng ngày 25-9, đích thân Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương Nguyễn Dương Thái có cuộc đối thoại thẳng thắn với người dân xã Lai Vu. Tại buổi đối thoại này, Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương đã đưa ra những giải pháp phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương giải quyết triệt để các vấn đề tồn đọng, giám sát chặt chẽ 24/24 giờ đối với việc xả thải của các công ty (trong Khu công nghiệp Lai Vu) thông qua hệ thống quan trắc. Ông Thái cũng đề nghị nhân dân cùng tham gia với chính quyền và cơ quan chức năng giám sát việc xả thải của các công ty. Đó là cách giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng của chính quyền địa phương. Còn việc giải tỏa các lều bạt mà người dân tự ý dựng lên trái phép gần cổng ra vào Khu công nghiệp Lai Vu, gây cản trở giao thông là việc làm cần thiết của chính quyền địa phương. Ở bất cứ đất nước nào có pháp luật cũng vậy, việc người dân tự ý giải quyết các vướng mắc, tranh chấp theo kiểu chủ quan, tiêu cực là điều không thể chấp nhận. Tất cả sai phạm, vi phạm của các bên đều phải được phân xử theo quy định của pháp luật. Đó chính là cách giải quyết thượng tôn pháp luật, hành xử tiến bộ.
Thứ hai, thông tin trong các bài viết, video clip đều được thực hiện kiểu dẫn dắt vòng vo, thông tin nọ dính vào thông tin kia, sự việc nọ gắn vào sự việc kia, nhắm tới mục tiêu cuối cùng là nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc vai trò của Nhà nước, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có nhiều clip chỉ là một đoạn video hoặc là một vài hình ảnh tĩnh nhặt nhạnh trên mạng, sau đó được đối tượng cắt ghép, lặp qua, lặp lại tạo cớ minh họa cho lời bình. Đây là cách làm phổ biến của những người chuyên lắp ghép thông tin và lại được hỗ trợ đắc lực bởi các trang mạng xã hội, nhất là các trang như Youtube, Facebook... hoặc các trang báo mạng như BBC, VOA... và các trang blog cá nhân. Cách đây chưa lâu, có hai vị tiến sĩ ngồi bình luận trên BBC về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với một số nước. Sau mấy câu mào đầu, mọi người cứ nghĩ họ bình luận thẳng thắn, vô tư, ích nước, lợi dân, nhưng chỉ vài câu sau họ đã "lòi cái đuôi" cá nhân, với những suy luận hoàn toàn chủ quan, chụp mũ về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với một số nước, trong đó có Liên bang Đức. Rồi từ những lập luận của mình, họ suy đoán là sắp tới Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ làm như thế này, như thế kia và đối tác sẽ hành động như thế này, như thế kia v.v.. tựa hồ trên thế giới chỉ có họ mới là người nắm được thông tin và hiểu biết tất cả. Sự ngộ nhận chủ quan, kết hợp với sự tha hóa đến mức thậm tệ về đạo đức của một số người đã tạo ra những thông tin méo mó, hoàn toàn sai sự thật, khiến người nghe/đọc mất thời gian để nghi ngờ, tìm hiểu.
 Thứ ba, điều cốt yếu của thông tin là tính trung thực và đặc trưng của nó là giải quyết đầy đủ các câu hỏi thông thường, như: Ai? Cái gì? Bao giờ? Ở đâu và như thế nào? Những người cung cấp thông tin nghiêm túc đều lấy việc giải quyết các câu hỏi trên làm trọng, nên mới tạo được sự tin tưởng đối với người tiếp nhận thông tin. Thế nhưng đối với những người chuyên xuyên tạc, lắp ghép thông tin, họ lại không tôn trọng những yếu tố đặc trưng cơ bản đó mà thường lấp liếm, tránh né các câu hỏi nhằm vào hai mục đích là tạo ra sự có vẻ như “bí mật” của thông tin và khơi gợi trí tò mò của người đọc/nghe. Từ đó, họ hướng người đọc/nghe đến mục tiêu cuối cùng là xuyên tạc một lĩnh vực nào đó, hoặc là đường lối lãnh đạo của Đảng, hoặc là việc xây dựng, duy trì hệ thống pháp luật của Nhà nước... Thế nên thông tin của họ thường không có đầu, không có cuối, không có chỉ dẫn, xác định về không gian, thời gian. 
Chống lại và loại bỏ những dạng thông tin như đã nêu trên ra khỏi đời sống xã hội, tạo môi trường trong sạch về thông tin là việc làm rất cần thiết và cần làm mấy việc chủ yếu như sau: Trước hết, mỗi người đọc/nghe phải có sự “tĩnh tâm” để nhận biết thật-giả khi tiếp nhận thông tin. Thứ hai, trước những thông tin có dấu hiệu xuyên tạc, trái chiều, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng công bố thông tin chính thống để phản bác lại thông tin bịa đặt, góp phần định hướng dư luận. Về vấn đề này phải tích cực phát huy vai trò của người phát ngôn, cơ quan phát ngôn đã được quy định trong Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 9-2-2017 của Chính phủ Quy định chi tiết về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước. Thứ ba, các cơ quan chức năng cần vào cuộc, điều tra, xử lý các đối tượng tung tin bịa đặt và cả các đối tượng tiếp tay cho sự bịa đặt ấy lan truyền trong xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thứ tư, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi tầng lớp nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của những người chuyên xuyên tạc thông tin, từ đó mà cảnh giác, đề phòng.
Ai cũng biết pháp luật của Việt Nam cho phép mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, nhưng cần phải hiểu rằng như thế không có nghĩa là cung cấp thông tin bừa bãi, bịa đặt, vu khống, xâm phạm lợi ích của người khác. Vì vậy, các hành vi xuyên tạc thông tin đáng phải lên án, đồng thời phải bị dẹp bỏ trong đời sống của nhân dân ta.



Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chống “diễn biến hòa bình” qua các kỳ đại hội


Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Điều này thể hiện rất rõ trong các văn kiện đại hội của Đảng. Qua đó, xác định nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu.
Năm 1994, hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ khóa VII lần đầu tiên xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong 4 nguy cơ của Đảng. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “Phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch”, “uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng”. Đại hội IX của Đảng xác định phải “Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đặt nhiệm vụ trên với tinh thần quyết liệt hơn khi xác định phải “Chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”. Tiếp tục tinh thần của Đại hội X, Đại hội XI của Đảng một lần nữa khẳng định “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”.
Gần đây nhất, năm 2016, Đại hội XII yêu cầu “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”. Cuối năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó xác định sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống là bước chuyển trực tiếp đến “diễn biến hòa bình”, làm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Thấm nhuần quan điểm của Đảng về chống “diễn biến hòa bình”, nhất là trên tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII: Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật; kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách làm vũ khí lý luận sắc bén, qua hoạt động thực tiễn của bản thân trong công tác và cuộc sống hằng ngày, góp phần làm thất bại âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ, chống phá thành quả cách mạng là trách nhiệm hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam./.

CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” - BÀI HỌC RÚT RA TỪ SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ


Ngày 7/11/1917, cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong đời sống chính trị nhân loại, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên. Sự kiện trọng đại này không chỉ chứng minh trên thực tế nguồn sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trước các giai cấp áp bức bóc lột, mà còn nêu một mẫu mực điển hình về sự lựa chọn con đường đi đến thắng lơi trong cuộc đấu tranh chống lại các giai cấp đó . Sau cách mạng, nhà nước Nga Xô viết ra đời, chủ nghĩa xã hội từ mục tiêu, lý tưởng, từ lý luận khoa học trở thành hiện thực.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã đạt được những thành tựu rất to lớn. Đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX, Liên Xô đã trở thành một siêu cường quốc, có tiềm lực kinh tế, chính trị, khoa học, quốc phòng - quân sự lớn, đủ sức răn đe, làm nản lòng tham vọng của các nước đế quốc dùng chiến tranh để thiết lập lại trật tự thế giới, thực sự là thành trì của hoà bình thế giới, là chỗ dựa của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Và cách đây gần 30 năm, cơn lốc “diễn biến hòa bình” đã làm sụp đổ và tan rã Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết - đất nước nhiều năm là thành trì của CNXH, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng trên thế giới. Tổng thống Nga V.Pu-tin đã từng coi đó là “Thảm họa địa-chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX”. Từ những trang đau buồn đó trong lịch sử nhân loại, chúng ta cần và có thể rút ta nhiều bài học bổ ích đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
          Sau khi Liên Xô sụp đổ đã có nhiều người nghiên cứu một cách có hệ thống, đưa ra nhiều nguyên nhân cả sâu xa và trực tiếp, cả bên trong và bên ngoài để cắt nghĩa, lý giải về sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô. Các công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận sự sụp đổ của Liên Xô có nguyên nhân sâu xa là do sự suy yếu về chính tri, tư tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô. Điều này đã tạo ra “mảnh đất màu mỡ” cho các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài chống phá, góp phần thúc đẩy Liên Xô sụp đổ.
          “Chủ nghĩa xã hội đã có lịch sử hơn 70 năm, có thành công và có thất bại, đó là nguồn kinh nghiệm vô giá”. Sự sụp đổ của Liên Xô đã để lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học luôn luôn cảnh giác cách mạng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với phong trào cách mạng.
          Từ chiến lược "diễn biến hoà bình" của các nước đế quốc tiến hành ở Liên Xô, có thể rút ra một số kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống "diễn biến hoà bình" như sau:
          Một là, thường xuyên nâng cao cảnh giác, nắm bắt và dự báo tình hình thế giới, trong nước, cùng những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
          Hai là, chủ động, kịp thời có các chủ trương, biện pháp tích cực, đồng bộ, linh hoạt phòng, chống mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình".
          Ba là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong phòng, chống "diễn biến hoà bình" dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, sự quản lý của nhà nước XHCN.
          Bốn là, quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa phòng ngừa và tiến công, lấy phòng ngừa làm chính.
          Đây là nhưng bài học kinh nghiệm bước đầu được rút ra. Cuộc đâu tranh chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc vẫn còn đang tiếp tục với tính chất ngày càng gay go, quyết liệt và phức tạp. Do vậy, những bài học này cần được vận dụng linh hoạt và không ngừng bổ sung để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc.


QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” HIỆN NAY


          Trong thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế một cách toàn diện, đứng trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và âm mưu thâm hiểm của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo cuộc đấu tranh giai cấp, bảo đảm an ninh quốc gia. Những quan điểm, tư tưởng này cần phải được quán triệt sâu sắc trong phòng, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Kiªn quyÕt ®Êu tranh lµm thÊt b¹i mäi ©m m­u vµ ho¹t ®éng “diÔn biÕn hoµ b×nh” cña c¸c thÕ lùc thï ®Þch. Chñ ®éng phßng ngõa, ®Êu tranh, phª ph¸n nh÷ng biÓu hiÖn “tù diÔn biÕn”, “tù chuyÓn ho¸” trong néi bé ta; kh¾c phôc sù suy tho¸i vÒ t­ t­ëng chÝnh trÞ, ®¹o ®øc, lèi sèng trong mét bé phËn kh«ng nhá c¸n bé, ®¶ng viªn”.[1]
          *Những quan điểm cơ bản :
          Một là, đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hoà bình" là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
          Hai là, đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
          Ba là, phải kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chống "diễn biến hoà bình" với các nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh quốc gia, chống bạo loạn lật đổ, chống chiến tranh xâm lược.
          Bốn là, trong đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hoà bình" phải phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của chế độ XHCN, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
          *Tư tưởng chỉ đạo:
          Thứ nhất, đảm bảo an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị.
          Đảng ta đã xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia là “bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa, đập tan âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình”, bạo loạt lật đổ của kẻ thù”. Để giữ vững ổn định chính trị, cần quan triệt phương châm: Giữ vững nguyên tắc chiến lược, có sách lược mềm dẻo, linh hoạt; xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia một cách kiên quyết và khôn khéo, tranh thủ được sự đồng tình rộng rãi; phân hoá, cô lập kẻ thù, không để xảy ra hậu quả gây phức tạp cho an ninh quốc gia.
          Thứ hai, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh toàn dân với vai trò nòng cốt của công an nhân dân và quân đội nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc XHCN; kết hợp chặt chẽ giữa an ninh, quốc phòng, đối ngoại với phát triển kinh tế xã hội.
            Thứ ba, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, không để hình thành các tổ chức, các lực lượng chính trị đối lập; kiên quyết không để xảy ra biểu tình, bạo loạn lật đổ.
            Thứ tư, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an ninh quốc gia, đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ.
            Thứ năm, tăng cương vai trò quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; giải quyết đúng đắn các vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh không để kẻ thù lợi dụng kích động, lôi kéo nhân dân biểu tình, gây bạo loạn…




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr.257

ĐỊNH HƯỚNG MỚI


Gần đây trên mạng xã hội xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề  định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên. Một số ý kiến còn cho rằng việc định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên ở nước ta hiện nay chưa được coi trọng đúng mức dẫn tới tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, sinh viên ra trường không kiếm được việc làm.v.v.. Bài viết dưới đây, góp thêm một cách nhìn về vấn đề này.
                                                    
                                    Ngày nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên thế giới và khu vực nói chung cũng như ở nước ta nói riêng đã và đang có những biến chuyển nhanh chóng và mạnh mẽ. Sự biến đổi và những biến động nhanh chóng của mọi mặt đời sống xã hội đã tác động sâu sắc tới hệ thống giá trị, thang giá trị và định hướng giá trị, trong đó có định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiểu một cách khái quát chính là quá trình tác động qua lại nhiều chiều nhằm giúp sinh viên nhận thức, chiếm lĩnh các giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị nghề nghiệp của các ngành học mà mình đang theo học để tất cả chúng trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống, cũng như trong nghề nghiệp tương lai của mỗi sinh viên. Nói đến định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên là nói đến quá trình lựa chọn, xác định nghề phù hợp với năng lực, trí tuệ và thể lực của mỗi người học. Quá trình này không chỉ diễn ra trước khi người học thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng mà còn diễn ra trong suốt tiến trình học tập, rèn luyện tại nhà trường để củng cố vững chắc nghề nghiệp mà bản thân mỗi người đã lựa chọn. Định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên bao gồm 3 yếu tố cơ bản là: nhận thức của sinh viên về giá trị nghề nghiệp (giá trị của ngành nghề mà mình đang theo học và mong muốn được làm sau khi ra trường); thái độ của sinh viên đối với nghề và hành động được sinh viên lựa chọn, thực hiện để tạo nên giá trị nghề nghiệp đó.
Thực tiễn cho thấy cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các trường đại học hiện nay, người học sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học có rất nhiều sự lựa chọn trong việc xác định ngành nghề theo học cho phù hợp với sở thích và năng lực của mình. Đại đa số người học đã chủ động và có trách nhiệm trong việc lựa chọn nghề, có ý thức nghề nghiệp rõ ràng, có lòng say mê hứng thú với ngành nghề mà mình đã lựa chọn. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn có một bộ phận người học ngay từ bước khởi đầu đã không có được định hướng nghề nghiệp đúng đắn. Họ đăng ký thi vào một số ngành học không phải từ sự say mê, hứng thú và những nhận thức đầy đủ về ngành học đó mà xuất phát từ nhiều lí do khác nhau như: do sức ép của gia đình; do có điều kiện thuận lợi để xin việc sau khi ra trường đối với ngành đang đăng ký; do tác động của bạn bè; đăng ký theo phong trào Chính điều đó đã làm cho thái độ đối với nghề nghiệp và sự lựa chọn những hành động để thực hiện các giá trị nghề nghiệp của họ không thật sự đầy đủ, thiếu vững chắc. Đứng trước những tác động thường xuyên, liên tục của những biến đổi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, trước sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và những yếu tố không thuận lợi khác, họ dễ hoang mang, dao động từ đó thiếu tích cực, tự giác trong học tập, tu dưỡng rèn luyện, thiếu niềm tin và động lực phấn đấu vào tương lai nghề nghiệp của mình. Thực trạng việc lựa chọn ngành nghề của người học với những tồn tại nói trên rõ ràng đang đặt ra đòi hỏi cần phải tiếp tục làm tốt hơn nữa việc định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trong quá trình họ tham gia học tập, rèn luyện ở các trường đại học, cao đẳng. Đây là trách nhiệm của toàn xã hội song trước hết và trực tiếp là của đội ngũ những người làm công tác quản lý, giáo dục - đào tạo ở các đại học, cao đẳng trong cả nước. Trong thời gian tới, để việc định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên được tiến hành có hiệu quả hơn thiết nghĩ cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trong quá trình đào tạo ở nhà trường
 Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục định hướng giá trị nghề nghiệp là giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quá trình định hướng nghề nghiệp cho sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng. Đây là con đường giúp người học nhận thức sâu sắc, đúng đắn giá trị nghề nghiệp của từng lĩnh vực mà mình đang theo học. Trên cơ sở đó người học thấy rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc lĩnh hội tri thức, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hình thành các phẩm chất nhân cách đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của nghề nghiệp và xã hội.
Quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục định hướng giá trị nghề nghiệp cần bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và toàn diện. Trong đó, cần tập trung làm tốt việc định hướng chính trị tư tưởng cho sinh viên, thông qua tiến trình đào tạo trang bị cho họ hệ thống lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng; yêu cầu phát triển đất nước và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cần định hướng các giá trị đạo đức đúng đắn cho sinh viên, lấy đó làm nền tảng để hình thành  động cơ, mục đích hoạt động nghề nghiệp đúng đắn cho họ. Quan tâm giáo dục, động viên giúp sinh viên tu dưỡng, rèn luyện để có lối sống và phong cách sống lành mạnh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể; giúp họ thấy rõ trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội, có ý thức đấu tranh bảo vệ các giá trị chân chính, đích thực và loại bỏ các giá trị lỗi thời, lạc hậu. Mặt khác, cũng cần tổ chức thường xuyên và có hiệu quả các hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường. Tuyên truyền, giáo dục truyền thống của nhà trường, của từng ngành học để khơi dậy niềm tự hào nghề nghiệp trong sinh viên qua đó giúp họ hình thành hoài bão, ước mơ và tinh thần vượt khó để khẳng định giá trị nghề nghiệp của chính mình.
Hai là, quan tâm bổ sung, hiện đại hóa nội dung đào tạo cho phù hợp với sự phát triển của từng lĩnh vực, từng ngành học
Bổ sung, hiện đại hoá nội dung đào tạo thực chất là tạo lập hệ thống thông tin, tri thức cho nội dung đào tạo phù hợp với tình hình thực tiễn, sự vận động, phát triển của các ngành nghề và trình độ phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại. Trong bổ sung, hiện đại hóa nội dung đào tạo cần coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa sự phát triển của những thành tựu khoa học hiện đại với định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên. Nói cách khác, việc xây dựng, xác lập nội dung đào tạo cần lựa chọn những vấn đề, những yếu tố mới phản ánh được khuynh hướng phát triển khách quan của khoa học và từng lĩnh vực, ngành học. Những nội dung đào tạo được bổ sung, hiện đại hóa phải tập trung bảo đảm được hệ thống tri thức, kinh nghiệm, kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp và hướng vào việc hình thành cho sinh viên những phẩm chất nhân cách cần thiết đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp và xã hội. Đồng thời trong việc bổ sung, hiện đại hóa nội dung đào tạo hiện nay cũng cần phải tăng cường tính thực tiễn, thời gian thực hành nghề nghiệp cho sinh viên, đây là một trong những biện pháp quan trọng giúp sinh viên nắm vững tri thức, hình thành kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp một cách nhanh chóng và vững chắc.
Ba là, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, giảng viên và môi trường văn hóa sư phạm trong các nhà trường
 Đây là một giải pháp hết sức quan trọng trong việc định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên bởi đội ngũ cán bộ, giảng viên từng lĩnh vực, ngành học chính là những người tiêu biểu cho lý tưởng nghề nghiệp của sinh viên. Sự say mê, hứng thú, tận tâm với công việc, lối sống mẫu mực và niềm tin nghề nghiệp của họ có sức thuyết phục to lớn đối với sinh viên. Là những chủ thể giáo dục trực tiếp tương tác với sinh viên, những người cán bộ, giảng viên có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt sẽ phát huy được tác dụng to lớn trong việc làm gương, hướng dẫn hành động, điều chỉnh quá trình định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên. Mặt khác, cũng cần phải coi trọng phát huy vai trò của môi trường văn hóa sư phạm trong các nhà trường bởi đây là môi trường tác động trực tiếp, toàn diện nhất tới định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên. Việc xây dựng môi trường văn hóa ở các nhà trường hiện nay cần phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện và yêu cầu, nhiệm vụ của từng nhà trường. Hơn nữa, cũng cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức đảng, tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh viên... trong việc giáo dục, rèn luyện sinh viên, động viên họ tham gia xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, biết tôn trọng mọi người và tôn trọng chính nghề nghiệp mà bản thân mình đang lựa chọn.
Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh  viên trong quá trình học tập, rèn luyện ở các nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội
Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của định hướng giá trị. Định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên được hình thành và phát triển thông qua chính hoạt động học tập, rèn luyện ở nhà trường và các hoạt động thực tiễn xã hội khác. Do vậy, trong quá trình định hướng giá trị nghề nghiệp cho sinh viên cần phải quan tâm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của họ trong mọi hoạt động. Việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh viên có được thực hiện tốt hay không có vai trò rất quan trọng của nhà trường. Thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng, hấp dẫn do nhà trường tổ chức, người sinh viên sẽ thể hiện đầy đủ vai trò chủ thể tích cực của mình. Những hoạt động đa dạng của nhà trường với tính định hướng rõ ràng cũng sẽ giúp sinh viên hình thành động cơ, mục đích học tập đúng đắn, phát triển nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin và xây dựng ý chí quyết tâm theo đuổi ngành nghề đã lựa chọn. Đó chính là cơ sở tạo ra động lực thúc đẩy người học ra sức nỗ lực để từng bước chiếm lĩnh các mục tiêu của tiến trình đào tạo đồng thời khẳng ngày một rõ hơn xu hướng nghề nghiệp của mình.
Năm là, coi trọng nâng cao chất lượng thi tuyển sinh đại học, cao đẳng
Chất lượng thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên trong quá trình đào tạo. Nó không chỉ là sự thể hiện thị hiếu, nhu cầu đối với từng ngành, nghề đào tạo mà còn là nhân tố tác động mạnh mẽ tới ý thức, động cơ học tập, hứng thú nghề nghiệp và ý chí quyết tâm học tập, rèn luyện của người học sau khi đã vào trường. Để nâng cao chất lượng thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hiện nay, đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn xã hội, sự kết hợp của nhiều cơ quan, ban ngành có liên quan trong đó có vai trò rất quan trọng của các trường đại học và cao đẳng. Trong quá trình tuyển sinh các nhà trường cần phải nghiên cứu, cân nhắc kĩ số lượng chỉ tiêu cho phù hợp trên cơ sở nhu cầu thực tiễn của từng ngành nghề, lĩnh vực mà xã hội đang cần. Khâu thi tuyển phải bảo đảm khách quan, trung thực, chính xác, tránh những biểu hiện tiêu cực trong thi cử, qua đó lựa chọn đúng đắn những thí sinh có đủ kiến thức, sức khoẻ, có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng. Đây chính là tiền đề đầu tiên có ý nghĩa quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nói chung cũng như chất lượng định hướng giá trị nghề nghiệp nói riêng cho sinh viên hiện nay./.


TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HUẤN LUYỆN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở NƯỚC TA

           
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và đã tiến hành xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm. Trong bối cảnh đó, có nhiều ý kiến trên mạng cho rằng cuộc đấu tranh này mới chỉ giải quyết được “ phần ngọn” của vấn đề. Theo những ý kiến này “gốc rễ” của vấn đề là từ trước tới nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng và Nhà nước ta chưa thực hiện tốt việc tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo cán bộ; công tác đào tạo cũng chưa có định hướng rõ ràng... Bài viết dưới đây cung cấp thêm những hiểu biết bổ ích về tính định hướng và quan điểm đúng đắn về huấn luyện đội ngũ cán bộ đã được Chủ tịch Hồ Chí minh chỉ ra từ rất sớm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh  lúc sinh thời là một vị lãnh tụ rất quan tâm đến vấn  đề cán bộ và công tác huấn luyện cán bộ. Trong lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và tổ chức xây dựng xã hội mới, Người đã coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác huấn luyện đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng đội ngũ này có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của các nhiệm vụ cách mạng. Người từng nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[1] và “vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”[2]. Vì vậy, xây dựng, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng; các tổ chức, đoàn thể phải thường xuyên quan tâm tổ chức huấn luyện cho cán bộ trong đoàn thể, tổ chức mình để mỗi cán bộ đều thành thạo công việc, biết thi đua, cố gắng hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân.
          Những quan điểm chỉ đạo đúng đắn trên của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta quán triệt trong công tác cán bộ của Đảng. Trải qua các giai đoạn, thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã chủ động tạo nguồn và huấn luyện được nhiều thế hệ cán bộ phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp kiến thiết đất nước. Trong thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên cương vị lãnh tụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã trực tiếp định hướng, chỉ đạo và tham gia vào công tác huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp. Tư tưởng của Người về huấn luyện cán bộ thể hiện rõ ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh cho rằng: việc huấn luyện cán bộ phải toàn diện nhưng coi trọng “làm việc gì học việc ấy” và phải bám sát nhu cầu thực tiễn.
Theo Hồ Chí Minh, “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”[3], Chính vì vậy, người cán bộ phải có kiến thức toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... Nền tảng kiến thức toàn diện giúp người cán bộ nhìn nhận sự vật, hiện tượng, các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn một cách đúng đắn, qua đó xử lý tốt công việc trên từng cương vị, chức trách được giao. Điều đó đặt ra cho cấp ủy Đảng và cơ quan, đoàn thể các cấp yêu cầu phải thực hiện tốt công tác huấn luyện với nội dung toàn diện, bám sát thực tiễn đòi hỏi phát triển của đội ngũ cán bộ và thực tiễn cách mạng. Tuy vậy, theo Hồ Chí Minh, bên cạnh nội dung huấn luyện toàn diện, cũng phải coi trọng huấn luyện theo phương châm “làm việc gì học việc ấy”. Người viết: “Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tổ chức, tuyên truyền, công an, v.v... cán bộ ở môn nào phải học cho thạo công việc ở môn ấy”[4]. Học cho thạo, cho giỏi công việc theo chuyên môn mà mình đảm nhiệm, theo Hồ Chí Minh, chính là cơ sở để mỗi người cán bộ xứng đáng với cương vị được giao và sự ủy thác của nhân dân, là điều kiện trực tiếp để họ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Cùng với nội dung huấn luyện toàn diện, trên cơ sở coi trọng “làm việc gì học việc ấy”, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến yêu cầu huấn luyện phải bám sát nhu cầu thực tiễn. Theo tư tưởng của Người, các chủ thể tham gia huấn luyện, đào tạo cán bộ phải nắm rõ thực tiễn đội ngũ cán bộ đang yếu về vấn đề gì, thiếu về phương diện nào để có kế hoạch huấn luyện cho phù hợp, có như vậy công tác huấn luyện mới thiết thực, hiệu quả và phát huy được vai trò của nó. Đặc biệt trong huấn luyện lý luận cho cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng đến tính thực tế và hiệu quả thực tiễn của việc lên lớp lý luận. Cùng với việc phê phán tình trạng lên lớp lý luận “khô khan, nhét cho đầy óc”, không coi trọng kết hợp với việc thực tế, Người đã vạch ra cách thức huấn luyện lý luận thiết thực có ích là “trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”[5]. Theo Người, đó là cách thức hữu hiệu để nâng cao chất lượng huấn luyện lý luận, giúp người học “có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo”[6].
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, người huấn luyện phải có trình độ cao nhất là đối với lĩnh vực mình tham gia huấn luyện đồng thời phải là kiểu mẫu để mọi người học học tập, noi theo.
Để đảm bảo cho công tác huấn luyện cán bộ có hiệu quả, Hồ Chí Minh cho rằng: người huấn luyện phải là kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc; phải là người có trình độ và am hiểu về lĩnh vực mà mình tham gia huấn luyện. Người viết: “Không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt”[7].
Theo Hồ Chí Minh, các lĩnh vực huấn luyện khác nhau (huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận) thì tính đặc thù và phương pháp huấn luyện cũng có điểm khác nhau nhưng tựu chung lại lĩnh vực huấn luyện nào cũng đặt ra yêu cầu cao đối với người huấn luyện. Do đó, “người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình... Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”[8]. Bên cạnh yêu cầu cao về trình độ, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi người huấn luyện phải là “kiểu mẫu” với lý tưởng vững chắc, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị và tác phong làm việc khoa học, thiết thực. Người khẳng định: Chỉ có những người huấn luyện đáp ứng cả yêu cầu về chuyên môn và đạo đức, biết cầu tiến và không ngừng học hỏi mới trở thành những người huấn luyện đúng nghĩa, có ích cho công tác huấn luyện và công tác đào tạo con người.
Thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ ra phương pháp huấn luyện là “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”, huấn luyện từ dưới lên trên.
Theo Hồ chí Minh, “việc cốt yếu là phải làm cho người học thấu hiểu vấn đề. Nhưng hiểu thấu cũng có nhiều cách”[9] vì thế trong huấn luyện phải tìm ra cách hợp lý nhất để giúp người học hiểu vấn đề một cách thiết thực, chu đáo có tính khái quát cao, không nên tham nhiều. Người luận giải bằng ví dụ: “muốn dạy cho người ta biết con voi là thế nào thì có thể nói tỉ mỉ bộ xương của nó ra sao, nó có mấy cái răng, nó sống thế nào, sống được mấy năm, v.v... Nhưng nếu chưa thể dạy kỹ như thế thì cũng có thể nói cho người ta biết bao quát hình thù của con voi như: mình nó to bằng ba bốn con trâu, nó có chân lớn như cột nhà, hai tai to như hai cái quạt, một cái vòi và hai cái ngà ở đầu, v.v... Như thế, người học không thể lầm con voi với con tôm, con mèo hay con bò được... Trái lại, nếu thì giờ ít, trình độ còn kém, mà cứ cặm cụi lo nghiên cứu tỉ mỉ cái ngà thì rất dễ dẫn tới tình trạng khi trở về lại lầm tưởng con voi là cái ngà, không lợi ích gì cả”[10]. Theo Hồ chí Minh, trong công tác huấn luyện cũng vậy, huấn luyện ở lĩnh vực nào thì phải bao quát được lĩnh vực đó, huấn luyện phải chu đáo nhưng có trọng tâm, có tính thiết thực bảo đảm người học có thể xem xét, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, công việc hàng ngày. Huấn luyện không nên ôm đồm nội dung dễ dẫn tới tình trạng chán nản ở người học, không mang lại hiệu quả thực tiễn, tốn kém thời gian, vật chất, công sức của tập thể và cá nhân.
Bên cạnh việc nhấn mạnh huấn luyện “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”, Hồ Chí Minh còn chỉ ra phương pháp huấn luyện từ dưới lên trên. Theo Người, cấp trên không nên ôm đồm mà “phải lấy người ở cấp dưới lên huấn luyện rồi lại trở lại cấp dưới để họ huấn luyện cho cấp dưới nữa. Trung Ương huấn luyện cho các khu, các tỉnh, cán bộ ở khu và tỉnh phải huấn luyện cho cán bộ huyện, xã. Như thế đỡ tốn công, đỡ tốn thì giờ, và cán bộ huấn luyện cho cấp dưới gần mình lại sát hơn”[11]. Người còn nhắc nhở: muốn huấn luyện theo phương pháp từ dưới lên trên được tốt, thật sự có hiệu quả thì công tác huấn luyện phải được tiến hành thật chu đáo. Nếu công tác huấn luyện ở trên không chu đáo và có những thiếu sót thì sẽ khó tránh khỏi tình trạng càng xuống dưới lại càng sai lệch. Điều đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng huấn luyện và làm cho đội ngũ cán bộ cấp dưới không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, Hồ Chí Minh cho rằng: để huấn luyện được tiến hành thuận lợi và có kết quả thì tài liệu huấn luyện phải đầy đủ, thiết thực.
Theo Hồ Chí Minh, hệ thống tài liệu huấn luyện vô cùng phong phú nhưng “trước hết phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác – Lênin làm gốc” vì đó là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học để mỗi người nhận thức, xem xét và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Lấy tài liệu về chủ nghĩa Mác – lênin làm gốc nhưng khi sử dụng tài liệu trong huấn luyện, Hồ Chí Minh cho rằng: “phải lựa chọn, sắp xếp lại, vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp với từng hạng. Tài liệu không thích hợp thì học không có lợi ích gì”[12].
Ngoài những tài liệu về chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh còn chỉ ra hệ thống những tài liệu thiết thực khác phục vụ cho huấn luyện như: đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, những chỉ thị, luật, lệnh của đoàn thể và chính phủ; tài liệu chuyên môn về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự... Người cũng nhấn mạnh đến những kinh nghiệm do những người đi học mang đến gom góp lại để trở thành những bài học, những tài liệu quý có thể phát huy hiệu quả rất cao trong quá trình huấn luyện.
Thứ năm, trong huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh chú trọng đề cao vai trò tự học của người cán bộ và chỉ ra những khuyết điểm cần khắc phục trong quá trình huấn luyện.
Theo Hồ Chí Minh, ý thức tự học tập, rèn luyện của người cán bộ trực tiếp quyết định tới quá trình trưởng thành và năng lực hoàn thành nhiệm vụ của họ. Vì vậy, trong huấn luyện phải biết khơi dậy và phát huy vai trò tự học của họ. Ngoài việc học tập ở trường, ở lớp, học với tổ chức, người cán bộ còn phải biết tìm tòi, học hỏi ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, đoàn thể cần phải định hướng cho cán bộ của mình nội dung học tập, tạo điều kiện để họ tự học, gắn học với hành bằng thực tiễn việc thực hiện công tác được phân công, đồng thời có kế hoạch, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả huấn luyện cũng như quá trình tự học của họ; thông qua đó nắm bắt kịp thời những thiếu sót, yếu kém của từng cán bộ để có kế hoạch huấn luyện nâng cao trình độ, năng lực và tác phong công tác cho họ, giúp họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Cùng với việc đề cao vai trò tự học, tự huấn luyện của cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đã vạch ra những khuyết điểm cần phải khắc phục trong quá trình huấn luyện, nổi lên đó là tình trạng mở lớp quá đông và thực trạng mở lớp lung tung, tràn lan. Đối với việc mở lớp quá đông, Người viết: “đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học cũng khác nhau, nên chương trình không sát”[13]. Đối với các lớp học, huấn luyện được mở lung tung tràn lan, Người chỉ rõ: “Vì mở nhiều lớp nên thiếu người giảng... thiếu người thì phải đi “bắt phu” vì thế người đến giảng khi nào cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như chuồn chuồn đạp nước, dạy không được chu đáo. Thiếu người giảng thì thường khi lại phải “bịt lỗ”, người “bịt lỗ” năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có hại cho đoàn thể”[14]. Theo Hồ Chí Minh công tác huấn luyện xét đến cùng là công tác đào tạo con người, đào tạo cán bộ, do đó cần nhận thức rõ những khuyết điểm trên để khắc phục kịp thời, có như vậy mới bảo đảm được sự chu đáo trong huấn luyện, mới xây dựng được đội ngũ những con người mới có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, đoàn thể và nhân dân giao cho.  
Tóm lại, những quan điểm cơ bản trên của Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ là một hệ thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Trong tiến trình cách mạng của Đảng và của dân tộc, những quan điểm định hướng và có tính thực tiễn sâu sắc đó đã góp phần xây dựng, đào tạo nên những thế hệ cán bộ có đức, có tài đủ sức đảm đương và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

                           





[1] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.273
[2] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.274
[3] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.269
[4] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.270
[5] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.272
[6] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.5, tr.272
[7] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.46
[8] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.46
[9] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.47
[10] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.47,48
[11] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.48
[12] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.49
[13] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.52
[14] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.6, tr.52