Thứ Tư, 20 tháng 9, 2017

THÀNH TỰU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN ĐƯỢC CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ


 Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội([1]). Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
+ Giai đoạn từ 1991 đến 1996, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á 1997 - 1999, tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9%, so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưa cao và vững chắc. Vượt qua giai đoạn suy giảm, trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã tăng dần, năm sau cao hơn năm trước, bình quân đạt 7,51%, đạt kế hoạch đề ra (7,5%), riêng năm 2005 đạt 8,43%([2]).
Đến năm 2005, tổng thu nhập quốc dân theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 53 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người trên 10 triệu đồng, tương đương khoảng 640 USD.
   + Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các mối quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện.
     = Trong 20 năm qua, kinh tế vĩ mô nước ta cơ bản ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Quan hệ cung cầu cơ bản là phù hợp, bảo đảm các hàng hóa thiết yếu, không để xảy ra những biến động lớn trên thị trường. Giá hàng tiêu dùng tăng bình quân 5,1% (riêng năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4%, nhưng không gây xáo trộn lớn trên thị trường).
          = Thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ, mức tăng thu 19,1%/năm, tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân hàng năm đạt 24,4% (mục tiêu 20-21%), trong đó tỷ trọng thu nội địa tăng lên (năm 2001 là 50,7%, năm 2005 là 55%). Tổng chi ngân sách tăng 19,4%/năm, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm bình quân 28% (mục tiêu là 25 - 26%).
          = Tỷ lệ tiết kiệm bình quân tăng 9%/năm (kế hoạch 5,5%). Vốn đầu tư phát triển trong GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên 38,7% năm 2005, trong đó đầu tư trong nước chiếm 72%.
          + Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
          = Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%). Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục giảm, từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005 (kế hoạch 20 - 21%). Trong từng ngành kinh tế, cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều có sự chuyển dịch tích cực.
          = Cơ cấu kinh tế đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
     = Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong 5 năm, từ năm 2000 đến 2005, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ từ 19,7% lên 25,3%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25 %.
     = Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm 2005, và chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9% GDP của cả nước.
   + Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng.
     = Xuất, nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm); năm 2005, bình quân đầu người đạt 390 USD/năm([3]), gấp đôi năm 2000, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 50% GDP. Một số sản phẩm của nước ta, như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
     .




([1]). Các văn kiện của Đ ảng xác định, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, nước ta bị lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đ ại hội VIII năm 1996 xác định: Về cơ bản nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm.
([2]) Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm như sau: 2001: 6,9%; 2002 : 7,08%; 2003: 7, 34% ; 2004 : 7, 8%; 2005 : 8,43%.
([3]). Bình quân xuất khẩu đầu người của 59 nước thu nhập thấp trên thế giới là 93 USD (số liệu năm 2004s).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét