Việt Nam là đất nước
đa dân tộc, đa tôn giáo. Khi chưa có sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài, ở
Việt Nam
đã hình thành hệ thống tín ngưỡng dân gian hết sức phong phú và đậm tính nhân
văn. Người Việt Nam
vốn tính khoan dung, việc tiếp nhận các tôn giáo mới không diễn ra một cách ồ ạt,
nhưng cũng không có sự đố kỵ, chối bỏ. Các tôn giáo, tín ngưỡng sống hoà đồng.
Ngay trong một gia đình, người ta có thể vừa thờ tổ tiên ông bà, thờ các vị thần
linh, lại vừa thờ đức Phật hoặc đức Chúa Jê-su. Người theo đạo và người không
theo đạo đối xử với nhau trên tình ruột thịt nghĩa đồng bào, người trong một nước
thì thương nhau cùng. Có lẽ vì thế mà lịch sử phát triển tôn giáo ở Việt Nam không có những
xung đột lớn, càng không có những cuộc gọi là Thánh chiến như ở một số
quốc gia khác.
Tuy
nhiên ở từng giai đoạn cụ thể có những thế lực đối kháng với dân tộc Việt Nam
đã sử dụng tôn giáo như một thứ công cụ chính trị hòng gây sự thù hằn, chia rẽ,
gây khó khăn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Các thế lực này còn gắn kết vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc, từ vấn đề tôn
giáo tạo nên vấn đề dân tộc, thực hiện cái điều mà không một người Việt Nam
chân chính nào muốn, là chia rẽ khối đại đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Đảng và
Nhà nước Việt Nam
luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Hiến pháp năm 1946 và Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo;
quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân; các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Hiến pháp cũng ghi nhận pháp luật bảo hộ những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo, và nghiêm cấm việc xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm những điều trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh từ những ngày đầu lập nước đã vun đắp tinh thần đại đoàn kết dân tộc,
đại đoàn kết toàn dân, kêu gọi giáo lương đoàn kết, chăm lo việc đạo, không
quên việc đời. Ngay trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ lâm thời ngày 3 tháng 9
năm 1945, Người đã nhấn mạnh:"Thực dân và phong kiến thi hành chính sách
chia rẽ đồng bào lương và đồng bào giáo để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị chính
phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết".Trong thành phần
Quốc hội và Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Việt Minh đều có các vị chức sắc tôn
giáo. Trong thư gửi đồng bào công giáo nhân dịp Noel năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: "Tôi mong đồng bào đoàn kết thêm chặt chẽ trong cuộc kháng
chiến để phụng sự đức Chúa, phụng sự Tổ quốc, và thực hiện lời Chúa dạy
"Hoà bình cho người lành dưới thế". Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người
theo đạo hay không theo đạo, đều là đồng bào, đều cùng một dòng giống, cội nguồn.
Gần đây nhất, Nghị quyết Ban chấp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 5,
khoá VIII, cũng đã "Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện...
trong tôn giáo".
Ở Việt
Nam, những người theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo, theo tôn giáo này hay
tôn giáo khác, đều thường tâm niệm cái câu "kính chúa yêu nước",
"tốt đời đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc"... Trên
cái nền tín ngưỡng dân gian truyền thống, các tôn giáo ở Việt Nam tồn tại một
cách hoà hợp, đan xen và cùng hướng tới con đường lớn mà dân tộc, đất nước đang
hướng tới.
Muốn nhận
xét, đánh giá một việc làm của một đất nước, nên xem chủ trương chính sách của
đất nước đó về vấn đề ấy như thế nào, và chính sách ấy được thực hiện trên thực
tế ra sao. Chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
như vậy, trước sau như một, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của
người dân. Trên thực tế không có chuyện như những ai đó đứng bên ngoài tưởng tượng
nên, rằng "Việt Nam cưỡng ép người bỏ đạo", Việt Nam "đàn áp nhiều
người Tin lành thiểu số", rằng, ở Việt Nam, "hiện có người đang bị
giam giữ vì tôn giáo"...Gần 100 năm đô hộ, đạo Công giáo được thực dân
Pháp dành nhiều ưu ái, nhưng suốt thời gian ấy, Toà thánh Vatican cũng chỉ bổ
nhiệm được 4 giám mục người Việt Nam. Trong khoảng thời gian 30 năm, từ 1945 đến
1975, ở cả 2 miền Nam, Bắc, cũng chỉ có 33 vị giám mục được bổ nhiệm. Vậy mà từ
năm 1975 đến 2000, trong vòng 25 năm, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Toà thánh
Vatican đã bổ nhiệm đến 42 vị giám mục. Số lượng người theo các đạo mỗi năm một
tăng thêm, đến nay cả nước có gần 20 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 1/4 dân số cả
nước. Càng ngày, càng có thêm nhiều tín ngưỡng truyền thống được khôi phục, thoả
mãn đời sống tâm linh của người dân. Khắp 2 miền Nam, Bắc của Việt Nam, từ miền
xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, các cơ sở thờ tự tôn giáo, phục
vụ tín ngưỡng được phục hồi, sửa chưã, nâng cấp, xây mới. Việc làm này không những
không bị ngăn cấm, mà ngược lại, ở những nơi có điều kiện, chính quyền còn hỗ
trợ về vật chất, động viên về tinh thần. Vào dịp lễ hội, những ngày lễ trọng của
các tôn giáo, không chỉ đồng bào theo đạo mà đông đảo đồng bào trong vùng và
chính
Sự đạo
cũng như việc đời, việc nào cũng phải theo lề theo luật, đều tuân theo luật đời.
Nếu như có chuyện một ai đó bị pháp luật xử lý, thì không nên nghĩ một cách gượng
ép là do người ấy theo đạo này theo đạo kia hoặc không theo đạo nào. Pháp luật
đối xử công bằng với mọi công dân, không phân biệt công dân theo đạo hoặc không
theo đạo, thì đó mới là luật pháp công bằng, xã hội văn minh. Pháp luật Việt Nam cũng thế,
pháp luật các nước cũng thế. Nhà nước Việt Nam không những tạo điều kiện cho
các tôn giáo hoạt động mà còn bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp,
trong đó có các tín ngưỡng cổ truyền. Một thứ tôn giáo nào đó lại có cách hành
xử trái ngược với thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến đạo đức truyền thống, đi
ngược với lợi ích dân tộc, lợi ích cộng đồng, thì chắc chắn những thứ gọi là
tôn giáo ấy, sẽ không được người Việt Nam chấp nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét