Trên blog phản động Ba Sàm ngày 15-8-2016 Hà Dương
Minh đã có bài viết sai lệch về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin với
tiêu đề: “Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy Chủ nghĩa Mác? Nên lắm!”. Với
lời lẽ phản động, suy luận thiếu lôgic và mù quáng.
Vậy sự thật về Chủ nghĩa Mác - Leenin có phải như Hà Dương Minh đã viết không?
Chủ
nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học, không chỉ trang bị cho giai cấp vô sản thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, công cụ để nhận thức thế giới theo nguyên tắc: khách quan,
toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển mà còn là vũ khí sắc bén giúp họ cải tạo
thế giới. Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự
thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn - kết tinh và là đỉnh cao thành tựu của trí tuệ,
tinh hoa văn hoá nhân loại.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đã kế thừa có chọn lọc
những thành tựu khoa học, những giá trị tư tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh
tế, chính trị, xã hội mà nhân loại đã đạt được; bằng nhãn quan chính trị thiên
tài và tầm cao của trí tuệ cộng với quá trình lao động nghiêm túc, vượt lên mọi
trở ngại, khó khăn, cám dỗ của vật chất và quy định hà khắc của chế độ chính trị
đương thời, cống hiến cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận
khoa học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự
do và hạnh phúc cho con người. Chủ
nghĩa Mác - Lênin định hướng giải phóng con người là giải phóng con người hiện
thực bằng chính các hoạt động của những con người hiện thực ấy với quan điểm “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới
con người, những quan hệ của con người về bản thân con người”[1]. Đây chính là quá trình từng bước xóa bỏ sự áp bức, bóc lột để xây
dựng một xã hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[2]. Phải “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là khẳng định
sinh hoạt của con người là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi sự tha hóa”[3].
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất đặt ra mục tiêu,
chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột,
thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết này cũng chỉ
ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng
và sức mạnh của chính mình. Quần
chúng nhân dân trước hết và quan trọng nhất là nhân dân lao động, là chủ thể
chân chính của mọi tiến trình lịch sử. Họ chính là lực lượng sản xuất ra của cải
vật chất - cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội, là lực lượng sản xuất ra những
giá trị tinh thần và là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời chỉ ra quy luật của
sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế-xã hội khác không phải diễn ra một cách tự phát mà
phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt“trong
sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định,
tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất này phù
hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là
cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính
trị tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”[4]. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên
cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự
diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một
tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể
hiện ở chỗ: Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn
được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân
loại. Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi, bất biến.“Học thuyết của chúng tôi -
Ăngghen nói về mình và về người bạn nổi tiếng của mình - không phải là một giáo
điều mà là một kim chỉ nam cho hành động. Luận điểm kinh điểm ấy nhấn mạnh một
cách đặc biệt rõ rệt và nổi bật một phương diện của chủ nghĩa Mác mà người ta rất
thường hay quên không nhìn tới. Mà quên không nhìn tới là phương diện ấy thì
chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ
vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó...; như thế
chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn
nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của
lịch sử”[5]. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là liều thuốc vạn năng được bốc sẵn
để chữa trị mọi căn bệnh trong đời sống xã hội, cũng không phải là cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, song, thế giới quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mục đích của chủ nghĩa Mác - Lênin, nội dung mang tính khoa
học, tính cách mạng, tính nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin là những chân lý bền
vững đang và sẽ là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động đối với tất cả
những cuộc cách mạng lấy con người làm mục đích cuối cùng. Điều này được minh
chứng sự vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin qua hơn
80 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, sự ra đời của chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam năm 1930
là sản phẩm tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi
ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng
của Đảng, đề ra đường lối chiến lược và sách lược lãnh đạo cách mạng. Trong những văn kiện đầu tiên của Đảng (chính cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt,..) đã xác định: Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
“Tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”4.
Luận cương Chính trị tháng 10-1930 của Đảng tiếp tục cụ thể hoá hai giai đoạn
cách mạng trong Cương lĩnh đầu tiên và nhấn mạnh thêm: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”5.
Có lý luận cách mạng soi đường, giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng
giành quyền lãnh đạo cách mạng, không chia sẻ quyền lãnh đạo cách mạng cho bất
kỳ giai cấp nào, đảng phái nào. Giai cấp công nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức
quần chúng yêu nước thành mặt trận dân tộc thống nhất, đưa cách mạng nước ta đi
từ thắng lơi này đến thắng lợi khác.
Như
vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức con đường phát triển
tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
để đạt đến đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng cộng sản. Từ đó đến nay, cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã trải qua
nhiều giai đoạn chứa đầy những biến cố lịch sử: Cao trào cách mạng (1930-1931),
cuộc vận động dân chủ (1936-1939) và cách mạng tháng Tám năm 1945 với sự ra đời
của Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông nam Á là thắng lợi đầu tiên của
chủ nghĩa Mác-Lênin được Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt
Nam. Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954). Quá
trình tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền (1954-1975),
chính là sự vận dụng đầy sáng tạo chủ nghĩa Mác-Ăngghen vào hoàn cảnh cụ thể
cách mạng nước ta, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiếp tục
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền
đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp một cách tài tình trong suốt cả
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại hơn hai
thế kỷ, đưa non sông về một mối. Thắng lợi này chính là quá trình vận dụng sáng
tạo phép biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin vào chiến lược và
sách lược, vào nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới, đưa cả nước bước vào thời kỳ xây dựng CNXH.
Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ
1975 đến nay là những giai đoạn phát triển không ngừng và đầy sáng tạo của cách
mạng Việt Nam. Sự sáng tạo đó được đánh dấu bằng bước ngoặt đổi mới tư duy lý
luận trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, đời sống xã hội mà Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Bên cạnh Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Đại hội lần
thứ VII của Đảng đã chính thức đưa vào văn kiện: “Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động”.
Đây chính là nền tảng vững chắc để Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam đều tuân theo quy luật
phát triển của lịch sử nhân loại trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Việc tuân theo quy luật phát triển và sự sáng tạo đó đã đưa cả dân tộc
ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, tiếp tục sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới… Đặc biệt, những thành tựu kỳ diệu đạt được
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại… đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tình hình chính trị ổn
định, vị thế và uy tín của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế ngày càng nâng
cao.
Sau
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã rút ra 5 kinh nghiệm từ thực
tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, kinh nghiêm thứ nhất: “…trong bất kỳ điều kiện và tình
huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới; kiên định và
vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[6]. Thực
tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hơn hai mươi năm
là chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đồng thời cho thấy việc
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày nay trước những thay đổi khôn lường của tình hình thế giới,
khu vực và trong nước, đặc biệt chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã ảnh
hưởng không nhỏ đối với phong trào cách mạng thế giới. Trước tình hình đó, Đảng
ta vẫn vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[7]. Nhận
thức đúng quy luật phát triển, vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào bối cảnh của
Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011) của
Đảng chỉ ra 8 đặc trưng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, 8 đặc trưng này
mang màu sắc Việt Nam, đúng với thực tiễn Việt Nam và phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Bên cạnh đó, Cương lĩnh còn đưa ra những định hướng lớn về
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó, Đảng ta coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân…”[8]. Đường lối này được xây dựng trên quan điểm lịch sử - cụ thể về con
người mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, đồng thời đây là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến
đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen… Điều đó chứng tỏ tư duy sáng tạo, bản lĩnh vững vàng của
Đảng ta trước những khó khăn thách thức, từng bước làm sáng rõ hơn về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và minh chứng hùng hồn sự tất thắng của hình
thái kinh tế XHCN mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã dự báo. Đảng ta khẳng định: “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội”[9].
Với
những thành tựu đạt được của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Việt Nam hơn 85
năm qua không chỉ thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng ta mà còn chứng
minh ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của học thuyết Mác-Lênin. Học thuyết
này đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là vũ khí đấu tranh chống lại mọi âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, là nền tảng tư tưởng để Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hà Dương Minh đã có những nhận xét,
phủ nhận những giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đóng góp cho nhân loại
nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Để vạch trần bộ mặt của Hà Dương
Minh và hiểu được những giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta hãy đọc bài viết sau và cùng suy ngẫm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét