Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc củng cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; đồng thời, có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước
là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Sự
khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp là một bước phát triển mạnh mẽ trong việc hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước của Đảng ta. Với sự
hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta được xác định bởi bốn
nội dung quan trọng: thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền
lực và kiểm soát quyền lực.
Thời gian gần đây, một số người đã cổ súy cho việc thực hiện cái gọi là
“tam quyền phân lập”, đòi tách biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để
“kiềm chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này theo mô hình nhà nước tư sản. Đây là những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù địch, phản
động ra sức tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
“Tam quyền phân lập” là một học thuyết phức
tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến khác nhau. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khi nêu
ra mặt tiến bộ của học thuyết về tam quyền phân lập đã nhấn mạnh rằng, sự phân
chia quyền lực, thực chất, không phải là cái gì khác ngoài sự phân công lao
động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn giản hóa và dễ kiểm soát. Ph.
Ăng-ghen viết: “Sự phân quyền... trên thực tế chỉ là một sự phân công lao động
tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục đích
đơn giản hóa và kiểm soát”. Còn G.V.Ph. Hê-ghen khẳng định rằng, phân
chia quyền lực chỉ nên dừng lại ở khái niệm; nếu sự phân chia quyền lực vượt
giới hạn của khái niệm và trở thành hiện thực thì quyền lực sẽ không thể nào
còn thống nhất lại được nữa. Các nhánh quyền lực tách rời nhau tới mức phân
liệt, kiềm chế - đối trọng, đối lập và chống lại nhau. Lúc đó, muốn
có được quyền lực nhà nước thống nhất lại phải dùng đến đại bác. Thực tiễn
xung đột chính trị ở Liên bang Nga sau khi Liên Xô sụp đổ đã chứng tỏ lời cảnh
báo của G.V.Ph. Hê-ghen hoàn toàn có cơ sở khoa học. Khi đó, việc áp dụng máy
móc thuyết “tam quyền phân lập” của phương Tây đã đẩy Liên bang Nga vào tình
trạng đối đầu, xung đột, không thể thỏa hiệp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp
và hành pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét