Một là, luận điệu trên đồng
nhất kinh tế thị trường với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cho rằng, chỉ
có một loại kinh tế thị trường là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đây là
luận điểm sai lầm.
Nguồn gốc và bản chất của
kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa. Các phạm trù (giá trị, giá cả, hàng
hóa, tiền tệ), quy luật (giá trị, cạnh tranh, cung - cầu) của kinh tế hàng hóa
cũng là các phạm trù, quy luật của kinh tế thị trường. Các phạm trù, quy luật
này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu
mới ra đời là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, chưa có hoặc rất ít sự can
thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài
những mặt tích cực còn đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là khủng hoảng
kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình” để
hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường hiện đại của các nước tư bản phát triển trên
thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều
tiết bởi “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu hình”. Kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn
toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp
và nội dung định hướng can thiệp của nhà nước.
Kinh tế thị trường là sản
phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự tồn tại,
vận động, phát triển của mình. Đến nay, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế thị
trường ở các nước tư bản phát triển, như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế
thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh
tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản,… Các mô hình kinh tế thị trường này, ở những
mức độ khác nhau, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, đều khách quan có các
nhân tố xã hội chủ nghĩa. Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của chủ
nghĩa xã hội ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước kinh tế chưa phát triển, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa nên việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
rất cần thiết, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển, từng bước xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mô hình
này là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sẽ là sai lầm khi
cho rằng, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa
hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau. Nền kinh tế thị trường phải vận hành
theo các quy luật của kinh tế thị trường, như quy luật cạnh tranh, giá trị,
cung - cầu,… trong đó quy luật giá trị là trung tâm. Đặc trưng của kinh tế thị
trường là cạnh tranh, các chủ thể kinh tế luôn cạnh tranh với nhau để chiếm các
nguồn lực sản xuất, dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là
sức ép, động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, hợp lý hóa
tổ chức sản xuất; ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tăng năng suất lao động;
đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; qua đó, thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh
lọc các chủ thể kinh tế yếu kém. Mặt tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh là làm
hàng giả, trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, ăn cắp công nghệ…
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhất là ở các nước
phát triển hiện nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ,
thúc đẩy, tôn trọng cạnh tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở
cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và
giải quyết các thất bại của thị trường.
Quy luật giá trị là quy
luật trung tâm, cơ bản của kinh tế thị trường. Giá trị hàng hóa là lao động xã
hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa. Chi phí để sản xuất hàng hóa, xét đến
cùng là chi phí lao động, bao gồm lao động sống (lao động của người trực tiếp
sản xuất ra hàng hóa) và lao động quá khứ (lao động chi phí để sản xuất ra các
tư liệu sản xuất được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa này). Lượng giá trị là
hao phí lao động xã hội cần thiết (hao phí lao động ở mức trung bình của xã
hội, năng suất lao động trung bình, cường độ lao động trung bình, được hình
thành do cạnh tranh). Giá trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá cả là
biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền kinh tế
thị trường, là mục tiêu, là yếu tố chi phối mọi hoạt động sản xuất và lưu thông
hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Tác động tích cực của quy luật giá
trị là thúc đẩy chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, không ngừng hợp lý hóa sản
xuất, cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ,… Tác động tiêu cực là khủng hoảng
chu kỳ, phân hóa xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường,… Trong nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước vận dụng quy luật giá
trị thông qua việc tạo khung khổ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận động để phát huy mặt
tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực.
Sự điều tiết của quy luật
cung - cầu được thể hiện khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống;
khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống
của giá cả hàng hóa là tín hiệu của thị trường để các chủ thể kinh tế chuyển
hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu, để các nhà
sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hóa thừa khi cung lớn hơn cầu, tăng
cường, mở rộng sản xuất các hàng hóa thiếu khi cung nhỏ hơn cầu. Đó chính là sự
tự điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế
thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung - cầu. Tuy nhiên, trong nền kinh
tế thị trường, những người sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chạy theo lợi nhuận
tối đa, luôn muốn đè ép đối thủ nên dẫn đến sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ,
tác động tiêu cực tới nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy
luật cung - cầu và cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục những
khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu kỳ do tự
điều tiết của cơ chế thị trường gây ra.
Các nền kinh tế thị
trường hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường
và vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng,
tạo môi trường hoạt động cho các quy luật kinh tế thị trường; vừa hạn chế, khắc
phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật kinh tế thị trường gây ra;
giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế
vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội.
Tuy nhiên, dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì bản chất
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích của giai
cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và khi nó
còn tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất thì những mâu thuẫn đối kháng của xã hội tư bản chủ nghĩa do khuyết tật
của nền kinh tế thị trường tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia
tăng và thêm gay gắt.
Từ thực tiễn quá trình
đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về cơ
bản đã hội đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại theo các chuẩn mực
quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản
xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể
kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng
đồng bộ…; vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý
bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn
lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật
của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó, các quy luật của kinh tế thị trường
vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá
cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa
phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường; thị trường
đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt
động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,…
Các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường gắn
với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển
nhanh và bền vững đất nước,…
Nội dung và phương thức
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật kinh tế
thị trường, mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu
cực của các quy luật, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, chắc chắn
rằng, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn
toàn không đối lập nhau, không loại trừ nhau trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét