Để xây dựng mối quan
hệ Việt - Mỹ lâu dài, trên nhiều lĩnh vực, ngày 1-11-1945, trong thư gửi Ngoại
trưởng Mỹ James F. Byrnes, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn “gửi một
phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết
lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc
tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực
chuyên môn khác”. Qua đó cho thấy sự khéo léo và tầm nhìn của Người trong quan
hệ với Mỹ.
Ngày 18-1-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman. Người
đã cảnh báo về “những hệ lụy đối với an ninh thế giới từ sự xâm lược của Pháp
vào Việt Nam”.
Bức thư cũng thể hiện
sự đồng tình ủng hộ của Việt Nam với quan điểm Tổng thống Mỹ về nguyên tắc bình
đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc: “Việt Nam nồng nhiệt hoan nghênh bài
phát biểu của Tổng thống Truman ngày 28-10-1945, trong đó nêu rõ các nguyên tắc
bình đẳng và quyền tự quyết được nêu ra trong các Hiến chương Đại Tây Dương và
San Francisco”. Cuối thư, Người bày tỏ hy vọng “Hoa Kỳ sẽ giúp nhân dân Việt
Nam bảo vệ độc lập và ủng hộ nhân dân Việt Nam trong quá trình tái thiết đất
nước” và cam kết nếu nhận được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sẽ đóng góp công sức vào việc xây dựng hòa bình và thịnh vượng trên thế giới.
Tiếp đó, trong thư gửi
Tổng thống Harry Truman ngày 16-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cũng như
Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện
với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác
này trở nên có lợi cho toàn thế giới”. Chỉ sau hơn một năm đất nước giành được
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “tám lần gửi thông điệp, thư, điện cho Tổng
thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu tình hình Đông Dương, đề nghị Hoa Kỳ công
nhận nền độc lập của Việt Nam, góp phần ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược do
thực dân Pháp gây ra ở Đông Dương”. Qua đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dốc
tâm tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập non trẻ của Việt Nam và xây
dựng quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia. Nhưng có lẽ do cân nhắc giữa mối quan
hệ với “đồng minh chiến lược” của Mỹ khi đó là Pháp với việc ủng hộ một Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập và đang phải đối mặt với “muôn
vàn gian khó”, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nên Tổng thống Harry
Truman đã chọn giải pháp im lặng trước tình cảm nhiệt thành của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với nước Mỹ.
Vì vậy mối quan hệ
Việt - Mỹ đã rẽ sang một hướng khác đầy chông gai. Mỹ đã tiếp tay cho thực dân
Pháp quay lại xâm lược Việt Nam. Sau khi Pháp thua trận, Mỹ trực tiếp can dự,
đưa quân xâm lược Việt Nam (1954 - 1975). Tiếp đến là thời kỳ Mỹ thực hiện bao
vây, cấm vận Việt Nam (1975 - 1994). Có thể nói đây là giai đoạn lịch sử bi
thương nhất trong quan hệ Việt - Mỹ.
Nhưng rồi trước xu thế
hội nhập, và vai trò vị trí của nước này đối với sự phát triển và thực hiện các
mục tiêu chiến lược của nước kia; trước yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh
tế, bảo vệ an ninh, quốc phòng của mỗi nước, của khu vực và thế giới, cái gì
đến rồi cũng phải đến. Và điều tất yếu đã diễn ra, ngày 12-7-1995, Việt Nam và
Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra chương mới tốt đẹp cho quan hệ
giữa hai nước./.
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa