“Thực
hiện công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” _Một hoạt động
ngoại
khóa bổ ích cho học viên Cao học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quân
sự
(Trung
tá K’ Tiến – Lớp Cao học CNXHKH 2022)
Chiều ngày 28/03/2023, tại Hội trường A, học
viện Chính trị (Bộ Quốc phòng), được sự nhất trí của thủ trưởng học viện, Khoa
CNXHKH đã phối hợp mời đ/c Phó giáo sư, tiến sỹ Đỗ Lam Hiền – Viện trưởng Viện
Tôn giáo và tín ngưỡng – học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đến thông tin,
trao đổi, truyền thụ, cập nhật những kiến thức thực tiễn công tác tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay cùng các đ/c Cán bộ, giảng viên, học viên Chuyên ngành KHXHNVQS.
Dù chỉ trong thời gian ngắn, song những vấn
đề đọng lại sau buổi truyền thụ kinh nghiệm thực sự rất bổ ích cho những học
viên cao học chuyên ngành KHXHNVQS. Đó là:
Sự thường trực kiến thức được chuyển tải uyển
chuyển, linh hoạt qua phong thái biểu đạt, trình bày chuyên nghiệp của nữ Phó
Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Lam Hiền, hoàn toàn không bị chế ước bởi áp lực về thời
gian, sự lựa chọn nội dung thông tin phù hợp đối tượng, tính khó, độ nhạy cảm
cao trước những vấn đề liên quan tôn giáo, công tác tôn giáo đều được báo cáo
viên khéo léo, tế nhị thông tin một cách vừa phải mà vẫn vừa đủ đạt được độ sâu
sắc và phong phú của buổi thông tin.
Năm 2023, cả nước có 27 triệu tín đồ theo
16 tôn giáo khác nhau. 99.000 chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. 33.000 cơ sở thờ
tự tôn giáo (22.000 chùa, còn lại là nhà thờ, tu viện, thánh đường, nhà nguyện).
10 chủng viện Công giáo. 03 Học viện Phật giáo. 01 Học viện Phật giáo Nam Tông
Khơ-Mer.
Đạo Phật 14 triệu tín đồ (vào Việt Nam từ
thế kỷ I),
Công giáo 7 triệu tín đồ (vào Việt Nam từ
thế kỷ XVI: 1533),
Tin Lành 1,5 triệu tín đồ (Vào Việt Nam thế
kỷ 20: 1911),
Islam giáo 80.000 tín đồ (vào Việt Nam từ
thế kỷ X),
B’Hai 7000 (Ali Muhammad/Baha’ullah sáng lập,
Iran, vào Việt Nam từ thế kỷ XIX, năm 1975).
Bà La Môn 54.000 tín đồ (vào Việt Nam từ
thế kỷ I).
Giáo Hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo
10.000 tín đồ (Hoàng Đức Huy – Giang Tây/Trung Quốc: 1632, vào Việt Nam 1863).
Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa
Giesu Kito (Mocmon) 1000 tín đồ (Soseph Smith sáng lập, Mỹ, 1830, vào Việt Nam
1962)
Cơ đốc Phục lâm Việt Nam 16.000 tín đồ
(William Miller, 1830, vào Việt Nam 1929).
Cao Đài 2,5 triệu tín đồ (Ngô Văn Chiêu,
1926, Tây Ninh).
Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu tín đồ (Huỳnh
Phú Sổ, 1939, An Giang)
Tứ Ân Hiếu nghĩa 62.000 tín đồ (Ngô Lợi,
1867, An Giang)
Bửu Sơn Kỳ Hương 15.000 (Đoàn Minh Huyên,
1849, An Giang)
Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam 1,5 triệu
tín đồ (Nguyễn Văn Bồng, Đồng Tháp, 1934)
Minh Lý Đạo tam tông miếu 1000 tín đồ (Âu
Kiệt Luân, 1924, Sài Gòn)
Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn 65.000 tín đồ
(Nguyễn Ngọc An, 1915, Kiên Giang)
Đ/c Viện trưởng Đỗ Lam Hiền đã lưu ý tương
quan số lượng tín đồ theo các tôn giáo khác nhau, không có nghĩa điều đó cho
phép chúng ta có thể cho rằng tôn giáo nào có đông đảo tín đồ hơn sẽ là tôn
giáo lớn hơn, tôn giáo có ít tín đồ là tôn giáo nhỏ hơn. Điều đó sẽ sẽ gây phản
ứng trái chiều gay gắt của các chức sắc, tín đồ tôn giáo đối với những người đi
làm công tác tôn giáo ở nước ta. Vì mọi tôn giáo được pháp luật công nhận tư
cách pháp nhân đều bình đẳng trước hiến pháp và pháp luật.
Tổ chức Pew Research Center, một nguồn
cung cấp số liệu uy tín quốc tế về tình hình tôn giáo toàn cầu được báo cáo
viên dẫn nguồn đã có sự cảnh báo: “Sự đa dạng tôn giáo và tộc người là một
thách thức không nhỏ với Chính phủ và các tổ chức tôn giáo trong việc bảo đảm
an ninh, ổn định tôn giáo và an ninh, an toàn xã hội”. Tổ chức này đã đánh
giá Việt Nam xếp thứ 02 trên thế giới và thứ 2 Đông Nam Á về tính đa dạng tôn
giáo _ (Sau Singapore, với 86% dân số của họ là người Hoa). Vì họ theo
tiêu chuẩn xem xét kiểu Mỹ về “Sự đa dạng trong cách biểu đạt và thực hành đức
tin”. Thậm chí họ gọi tín ngưỡng là “tôn giáo bản địa”. Nếu theo cách của họ,
dân tộc Việt Nam với 54 dân tộc anh em với những tín ngưỡng của từng tộc người
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam sẽ còn có tính đa dạng tôn giáo hơn nước
bạn hàng chục lần với quy mô dân số và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc Việt Nam.
Lưu ý hiện nay có khoảng 100 “hiện tượng
tôn giáo mới”, chưa có tư cách pháp nhân, chưa được cấp đăng ký hoạt động theo pháp
luật Việt Nam (New Religion Phenomenon/New Religion Movement Alternative
Spirituality). Đây là những hiện tượng mà tnững người làm công tác tôn giáo hoặc
tiếp cận nghiên cứu tôn giáo không nên vô tình “tôn giáo hóa” nó. Giữa các tôn
giáo không ngừng có sự cạnh tranh thu hút tín đồ để khẳng định mình_ “trộm
chiên của nhau”, do vậy nhiều vấn đề giữa các tôn giáo cũng có thể nảy
sinh, đặt ra áp lực trực tiếp lên công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, mà trực tiếp là những người trực tiếp làm
công tác tuyên truyền, vận động, công tác vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Hết sức chú ý đấu tranh chống việc đẩy mạnh
truyền đạo vùng đồng bào Dân tộc thiểu số hòng quyện chặt 2 vấn đề rất nhạy cảm
và phức tạp với nhau, thúc đẩy xu thế ly khai dân tộc (như Tin lành vùng đồng
bào dân tộc Mông, tin lành Đề Ga ở Tây Nguyên, Đạo Islam vùng đồng bào Chăm, vấn
đề người Khơ-Me Tây Nam Bộ…)
Qua những nội dung được thông tin, định hướng
về kinh nghiệm công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, từng cán bộ, giảng viên,
học viên trực tiếp bổ sung, cập nhật được những số liệu chính thống mới nhất,
làm vững chắc hơn hiểu biết về đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ta về công tác tôn giáo, về đại đoàn kết trong thời kỳ mới, nắm
vững nội dung cần tập trung đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vận dụng hiệu quả vào quá trình học
tập, nghiên cứu khoa học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của chuyên ngành đặt ra
trong thời gian tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét