Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và được bổ sung, phát triển năm 2011 và các
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều khẳng định: Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, kim
chỉ nam cho hành động cách mạng. Đồng thời Đảng yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán
bộ, đảng viên phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(1). Kiên định và
sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hai mặt của một
vấn đề thống nhất với nhau; kiên định phải trên cơ sở sáng tạo và sáng tạo phải
trên cơ sở kiên định, nếu không sẽ sa vào sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, máy
móc hoặc chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Trong
hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không
ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và thời đại; nhờ đó đã đưa cách
mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, vượt qua mọi thác ghềnh,
vượt qua những thời điểm hiểm nghèo của cách mạng.
1- Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phe XHCN tan rã, các thế lực thù địch không
ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng,
chống phá chế độ XHCN ở nước ta. Trong khi chúng ta đang đẩy mạnh toàn diện và
đồng bộ sự nghiệp đổi mới, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ thì cũng xuất hiện
nhiều khó khăn, thách thức. Những khó khăn, thách thức đó, một mặt,
do những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình đổi mới ngày
càng đi vào chiều sâu; mặt khác, do những hạn chế, yếu kém, khuyết
điểm chưa được khắc phục kịp thời, đồng thời cộng với tình hình thế giới biến
đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Tình hình khách quan đó đã tác động đến
nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho một bộ phận cán
bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, bản lĩnh chính trị không
vững vàng nên có sự dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng XHCN và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin;
tình trạng nhạt Đảng, xa rời chính trị, phai nhạt lý tưởng đã và đang diễn ra.
Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí có cả cán bộ cao cấp mất lòng tin vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, vào lý tưởng XHCN, giảm sút ý chí chiến đấu, mắc phải những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra. Trong nhận thức của
không ít cán bộ, đảng viên có sự mơ hồ, không
phân biệt đúng - sai ở tầm quan điểm về những vấn đề lớn, như đánh giá về bản
chất của thời đại, về chủ nghĩa tư bản (CNTB), về CNXH, về chủ nghĩa Mác - Lênin,
về nguyên nhân sự sụp đổ của Liên Xô, về thời kỳ quá độ và định hướng XHCN ở
nước ta, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về vai trò của kinh tế tư
nhân, về kinh tế thị trường định hướng XHCN, về chế độ sở hữu đất đai,...
Trên
những vấn đề đó, công tác tư tưởng - lý luận, bên cạnh những thành tựu đạt
được, còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa nghiên cứu sâu, thấu đáo để làm sáng tỏ
bản chất của vấn đề, chưa lý giải được một cách thật sự khoa học, có tính
thuyết phục, nhiều vấn đề còn bỏ lửng, chưa kết luận được. Qua tổng kết 30 năm
đổi mới (1986 - 2016), qua văn kiện Đại hội XII của Đảng và nghị quyết các Hội
nghị Trung ương 4 và 5 khóa XII, một số vấn đề đã được nhận thức rõ hơn, như
vấn đề thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề vai trò kinh tế tư
nhân... Tuy nhiên, phía trước còn là “đại vấn đề” phải tiếp tục đi sâu nhận
thức, làm rõ, nếu không sẽ vẫn tiếp tục tình trạng còn nhiều vướng mắc trong
nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên; tình trạng nói và làm, nói và nghĩ khác
nhau; thiếu thảo luận một cách dân chủ, cởi mở, làm hạn chế sự thống nhất về
chính trị, tinh thần trong nội bộ Đảng.
Như
trên đã nêu, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự tiếp
tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế của CNTB, sự xuyên tạc, tấn công
của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị vào ý thức hệ XHCN đã làm cho một số
cán bộ, đảng viên giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Có người
cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng lắm là
đầu thế kỷ XX - thời đại văn minh cơ khí, còn bây giờ là thế kỷ XXI - thời đại
của cách mạng khoa học - công nghệ, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế
tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa; rằng
chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam mà du nhập từ phương
Tây nên không phù hợp với điều kiện Việt Nam...
Những
nhận thức đó, về mặt khách quan, là có lợi cho quan điểm cơ hội chính trị. Họ
không thấy rằng, đứng trên quan điểm khách quan mà xem xét có một số luận điểm
cụ thể của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin không còn phù hợp nữa, đã bị thực
tiễn lịch sử vượt qua hoặc bị nhận thức sai mà bây giờ phải nhận thức lại cho
đúng, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tinh thần
khoa học và cách mạng của nó, vẫn giữ nguyên giá trị. Chẳng hạn các quy luật
của phép biện chứng duy vật, của lý luận nhận thức mác-xít, của học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, những tư tưởng khoa học về nhà nước, cách mạng
xã hội, về CNXH... Họ không thấy hoàn cảnh lịch sử - cụ thể luôn luôn thay đổi,
song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ
nghĩa Mác - Lênin nêu lên là không thay đổi, có giá trị bền vững lâu dài. Họ
cũng không thấy hoặc cố tình không thấy rằng, trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta
đã có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin theo
tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ,
giáo điều, duy ý chí về chủ nghĩa Mác - Lênin, về CNXH, phân biệt những nguyên
lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin với những luận điểm cụ thể của các ông gắn
liền với những hoàn cảnh cụ thể lúc đó mà sau này đã bị lịch sử vượt qua. Họ
cũng không thấy rằng, thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của Việt Nam,
trên một loạt vấn đề. Chẳng hạn, vấn đề mục tiêu và đặc trưng của xã hội XHCN
Việt Nam, con đường đi lên CNXH của nước ta, vấn đề xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và
phát huy dân chủ, những vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát triển con người; về kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; về chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế... Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin thì không có những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
mà nhân dân ta đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới.
Trong
số những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ có các thế lực thù
địch, cơ hội chính trị mà có cả một số cán bộ, đảng viên. Những cán bộ, đảng
viên này có sự dao động về ý thức hệ, về niềm tin, về lý tưởng XHCN. Có người
kiến nghị đòi sửa đổi Cương lĩnh của Đảng theo hướng đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra
khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng (chỉ giữ lại “học thuyết Hồ Chí Minh”), chỉ giữ
lại mục tiêu độc lập dân tộc, bỏ mục tiêu XHCN. Đây chính là một biểu hiện của
sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Đúng như văn kiện Đại hội XII của Đảng nhận
định: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương
hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(2).
Có
người đưa ra một luận điểm hết sức sai lầm rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một
lý thuyết muốn làm điều tốt nhưng nội dung tư duy lại phi cách mạng, không
tưởng..., vì thế cần phải vứt bỏ; rằng, trải hơn một thế kỷ và trên phạm vi
nhân loại, đến nay nhận thức khoa học đào thải chủ nghĩa hoang tưởng ấy đã hoàn
tất.
Luận
điệu của họ nhằm chống chủ nghĩa Mác - Lênin không có gì mới. Họ cố tình lảng
tránh một thực tế là tại sao nhiều nhà tư tưởng tư sản trên thế giới, như
Giắc-cơ Đê-ri-đa, Tê-ry I-gơ-le-tơn, Đi-đi-ê Ê-ri-bông... vẫn đề cao Các Mác,
kêu gọi nhân loại hãy “trở về với Mác”, “nhân loại không thể thiếu Mác”, “không
có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”(3). Trong thời
kỳ khủng hoảng kinh tế - tài chính những năm 2008 - 2009 ở các nước tư bản phát
triển, bộ “Tư bản” của C.Mác đã được in và tái bản với số
lượng tăng vọt, trở thành sách bán chạy ở các nước tư bản, như Anh, Đức, Pháp,
I-ta-li-a, Nhật Bản,... Sở dĩ có hiện tượng đó vì người ta muốn tìm câu trả lời
từ trong tác phẩm vĩ đại của C. Mác về những vấn đề của xã hội tư bản hiện đại.
Nhà sử học người Anh Ê-rích Hô-xbon nhận xét rằng “việc quay trở lại đọc Mác có
nghĩa là thế giới cần phải nghiên cứu học thuyết của ông về chủ nghĩa tư bản,
và về vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài người”.
Những ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đã hiểu không đúng bản
chất, nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ về đấu
tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, bạo lực trấn áp. Để phủ nhận chủ nghĩa Mác
- Lênin, họ đem đối lập một cách giả tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với dân tộc
(chẳng hạn, họ nói “cứ nhắm mắt theo chủ nghĩa thì phản bội dân tộc” hoặc cứ
“theo chủ nghĩa thì không bảo vệ được chủ quyền quốc gia”); họ còn đem đối lập
chủ nghĩa Mác - Lênin với sự phát triển của đất nước (họ nói “Đảng coi trọng
chủ nghĩa chứ không coi trọng sự phát triển”).
Những
quan niệm trên đây hoàn toàn sai lầm. Những quan niệm này không thấy rằng trước
đây chỉ khi tìm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
lao động và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, nhờ đó mới có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên CNXH, thắng lợi của công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi chủ nghĩa Mác - Lênin như cái “cẩm nang thần
kỳ”, “mặt trời chói lọi” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường phát
triển của đất nước. Chính vì vậy Đảng ta luôn yêu cầu “phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”(4).
2- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra 27 biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Trong những biểu hiện đó, có những biểu hiện thuộc về
suy thoái trong nhận thức, thái độ, hành vi đối với nền tảng tư tưởng của Đảng,
đó là “hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh”, thậm chí “phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh”. Đây chính là sự dao động về nền tảng tư tưởng, về ý thức hệ của Đảng, từ
đó có thể dẫn đến phản bội lại mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Điều nguy hại là
những sự dao động này lại nằm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có
cả những người có chức, có quyền. Bài học về sự sụp đổ của mô hình XHCN
xô-viết, sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô cho chúng ta thấy tác hại khôn
lường của sự xa rời nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII đã đề ra nhiệm vụ phải đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, trong đó có nhiệm vụ phải kiên định, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh mới của
tình hình thế giới và trong nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt,
thực hiện tốt Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư về
tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới và
thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ
nhất, tăng cường và đổi mới việc
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhận thức sâu sắc hơn các luận điểm của
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin, để qua đó khẳng định những luận điểm nào có
giá trị bền vững, trước kia đúng, bây giờ vẫn đúng và về sau vẫn đúng; làm rõ
những luận điểm nào trước kia đúng, nhưng điều kiện lịch sử hiện nay đã thay
đổi, đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp; những luận điểm nào mà sinh
thời, các ông đã phát hiện thấy không đầy đủ hoặc thừa nhận là sai và đã sửa
đổi nhưng chúng ta không thấy hết; những luận điểm nào của các ông mà chúng ta
đã hiểu sai do nghiên cứu không đến nơi đến chốn hoặc hiểu theo cách hiểu không
đúng của người khác, đảng khác. Đồng thời và quan trọng hơn là phải bổ sung,
phát triển sáng tạo lên tầm cao mới chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn mới.
Để
thực hiện công việc trên đây đòi hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc của các cơ quan
nghiên cứu lý luận và các nhà khoa học. Ở đây không phải đơn thuần là hệ thống
hóa, liệt kê các luận điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin mà phải
nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các tác phẩm kinh điển, phân tích, tổng hợp, so
sánh chúng với lịch sử và đương đại, gắn với tổng kết thực tiễn, coi trọng việc
vận dụng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn. Thông qua đó
tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và phát triển hệ thống lý luận về CNXH và con
đường đi lên CNXH của Việt Nam trong thời kỳ mới, làm rõ những vấn đề bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong bối cảnh mới.
Thứ
hai, đổi mới mạnh mẽ công tác giáo
dục lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả, bám sát thực
tiễn, nâng cao tính thiết thực, tránh chạy theo hình thức, chạy theo bằng cấp.
Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng
dạy lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị, trường đại học, cao
đẳng theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương
đại. Thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KH/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư khóa
XI về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Coi trọng hơn việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ
trong các trường đại học, cao đẳng, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học
các bộ môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các chương trình đào
tạo lý luận chính trị phù hợp với đối tượng và cấp học, có tính liên thông,
khắc phục sự chồng chéo, trùng lặp, chương trình phải phù hợp với nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.
Thứ
ba, tăng cường công tác tư tưởng,
công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Chủ động và tích cực
đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của chúng ta trong
công tác lãnh đạo, trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất
mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Tiếp tục tổ chức
nghiên cứu làm sáng tỏ một loạt các vấn đề ở tầm quan điểm liên quan đến đường
lối đổi mới của Đảng đã được nêu ra trong Văn kiện Đại hội XII và Báo cáo tổng
kết 30 năm đổi mới. Phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, thực
hiện tốt Quy định về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ
quan đảng, nhà nước (Quy định số 285-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI), sớm có
kết luận về những vấn đề đang còn ý kiến khác nhau, chủ động tổ chức các cuộc
tọa đàm, đối thoại với những người có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan
điểm của Đảng nhằm tăng cường sự đồng thuận
trong xã hội, sự nhất trí trong nội bộ Đảng. Đồng thời tăng cường quản lý báo
chí, xuất bản, quản lý in-tơ-nét, mạng xã hội, tăng cường thông tin đối ngoại
và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công
tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây
dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân.
Thứ
tư, chú trọng xây dựng, phát
triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các chuyên gia đầu ngành, nâng cao trình độ, năng lực
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của cán bộ.
Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận,
của việc bảo vệ, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận. Hiện nay đội ngũ cán bộ lý
luận của chúng ta đông nhưng không mạnh, tiềm lực lý luận mỏng, ít có chuyên
gia đầu ngành. Vì vậy Đảng, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ lý luận cả về quan điểm, nhận thức, về bản lĩnh chính
trị và phẩm chất đạo đức, có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo
đảm đời sống vật chất và tinh thần, điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi
cho các nhà khoa học, hướng các nhà khoa học đi sâu vào chuyên môn, trở thành
những chuyên gia giỏi.
Chú trọng công tác đào tạo cán bộ lý luận từ
khâu quy hoạch đến xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp; ưu tiên tuyển
chọn những sinh viên tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, giỏi đưa đi đào tạo về
lý luận chuyên sâu cho các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương hướng lâu dài là phải hình thành, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận,
trong đó có nhiều chuyên gia giỏi, nhiều nhà khoa học đầu ngành, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, giàu khả năng tư duy sáng tạo, am
hiểu tình hình thế giới và trong nước, có năng lực vận dụng lý luận vào thực
tiễn; quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận để chuẩn bị tiềm lực cho sự phát
triển lâu dài trong tương lai./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét