Cách đây vừa tròn 77 năm, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), một chính thể dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn
80 năm ách đô hộ của thực dân, phát-xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người chủ một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình; một nước độc
lập, tự do và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chủ tịch soạn thảo ngay giữa lòng Hà Nội, tại số nhà 48 phố
Hàng Ngang của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô. Văn kiện quan trọng này được
Người trao đổi, lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương
Đảng, các thành viên Chính phủ lâm thời, trong quần chúng nhân dân. Với 1.120 từ, được sắp xếp trong
49 câu. Đây là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc
bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc, khẳng định
chủ quyền quốc gia của một dân tộc và giá trị về quyền con người của người dân
một nước độc lập. Đó là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu
sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của
Người, trong đó chứa đựng cả những
giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền
con người, quyền dân tộc; thể hiện trí tuệ sắc sảo, tư duy lỗi lạc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Tuyên bố đó đã thể hiện ý chí và khí phách của dân tộc Việt Nam “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là lời hịch truyền gửi
đến muôn đời con cháu mai sau với tinh thần “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Từ
việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có
thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; bằng
sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển
sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. Và vì
thế, mỗi người dân Việt Nam đều có những quyền chính đáng ấy; không ai có thể
tước đoạt được và nếu bị tước đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đoàn kết, kiên
trì chiến đấu để giành lại và quyết tâm bảo vệ.
Tuyên ngôn độc lập không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất
khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do mà còn
khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới;
đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa, các dân tộc bị áp bức đứng lên
chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Khẳng định rõ vai trò, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do; thể
hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là minh chứng cho một sách lược
mềm dẻo, linh hoạt về đối ngoại, tinh thần nhân văn cao cả, tính hòa hiếu của
một dân tộc “muốn là bạn với các nước”. Không những vậy, đó là cột mốc đánh dấu lịch sử
dân tộc Việt Nam đã bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội.
Những
quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc
lập về quyền con người, quyền dân tộc, khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên
cường để giữ vững nền độc lập, tự do mãi trường tồn cùng lịch sử, là ngọn đuốc
soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét