Hiện đại hóa quân đội và thực hiện chính sách quốc phòng
"bốn không" sẽ góp phần bảo vệ hòa bình vững chắc của đất nước.
Cuộc chiến Nga - Ukraine đã kéo dài
hơn 3 tuần, khiến hai bên chịu tổn thất nặng nề về nhiều mặt, trong đó trực
tiếp là người dân Ukraine. Hàng triệu người phải bỏ quê hương đi tị nạn, nhiều
dân thường bao gồm cả trẻ em thương vong. Chiến sự diễn ra bên trong đất nước
Ukraine, nhưng ảnh hưởng trên khắp thế giới, đặt ra những vấn đề chưa có tiền
lệ về quan hệ quốc tế và nguy cơ phá vỡ cấu trúc an ninh hiện tại của thế giới.
Với Việt Nam, nhiều ý kiến phân tích nhìn từ cuộc chiến này có thể thấy những
thách thức, những bài toán chiến lược sao cho những vấn đề tương tự không bao
giờ được phép xảy ra với đất nước chúng ta.
Có nhiều ý kiến cho rằng: Trong bối
cảnh thế giới bất ổn, Việt Nam nên chăng liên minh với nước khác, chấp nhận cho
họ đặt căn cứ quân sự giúp chúng ta bảo vệ đất nước? Điều đó thực sự là một
luận điểm mơ hồ, ảo tưởng. Vì cả trong lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh.
Nếu làm vậy chúng ta sẽ bị đẩy lên tuyến đầu và trở thành nạn nhân của cuộc
cạnh tranh địa - chiến lược giữa các nước lớn. Mà Ucraina hiện đang là một ví
dụ như vậy!
Trong Chiến tranh Lạnh, Việt Nam cho
Liên Xô sử dụng căn cứ hải quân Cam Ranh từ năm 1978. Nhưng từ khi thực hiện
đường lối đổi mới, Việt Nam từ chối gia hạn và Nga - nước kế thừa Liên Xô về
mặt pháp lý - đã rời khỏi Cam Ranh tháng 5/2002, sớm 2 năm so với thỏa thuận đã
ký. "Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để
chống lại nước khác", là một trong số chính sách quốc phòng "bốn
không" của Việt Nam. "Ba không" còn lại gồm: Việt Nam không tham
gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; và không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Thứ
nhất, không tham gia liên minh quân sự
Việt Nam nhất quán "thêm bạn, bớt
thù". Một khi tham gia liên minh quân sự, chúng ta sẽ phải gắn với một
bên, phải san sẻ trách nhiệm tài chính, nhân lực; có thể phải nhân nhượng một
số lợi ích, sẽ phải hy sinh một phần nhất định chủ quyền quốc gia, có thể phải
đối đầu với bên khác, tức là "chuốc" thêm kẻ thù. Do đó, Việt Nam chỉ
chọn đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên
Hợp Quốc. Mặt khác, sau Chiến tranh Lạnh, các nước đề cao lợi ích quốc gia -
dân tộc, mỗi nước phải tự bảo vệ lợi ích quốc gia mình, không thể trông chờ và
sẽ không có quốc gia nào bảo vệ lợi ích thay cho nước khác. Bên cạnh đó, Việt
Nam cố gắng duy trì quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, đặc biệt trong bối cảnh
diễn ra cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực Biển Đông.
Thứ
hai, không liên kết với nước này để chống nước kia
Việc thực hiện nguyên tắc "không
liên kết với bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác" trở nên đặc biệt
quan trọng trong bối cảnh khu vực hiện nay. Nếu Việt Nam liên minh với bên
ngoài, ưu tiên dùng biện pháp quân sự để giải quyết các tranh chấp, bất đồng thì
sẽ khó được các nước khác ủng hộ. Nguyên tắc này giúp Việt Nam có vị thế phù
hợp để đối thoại với các nước hay tham gia vào các cơ chế đối thoại an ninh,
quan sát viên các hội nghị, các cuộc tập trận ở khu vực. Tuy tham gia diễn tập
với một số nước, nhưng Việt Nam không đi với đối tác này để chống lại nước thứ
ba. Mỗi năm, Việt Nam đón hàng chục tàu chiến nước ngoài, thậm chí năm 2018 và
năm 2020, Việt Nam đón tàu sân bay Mỹ vào thăm, nhưng không phải là Việt Nam
dùng các chiến hạm nước ngoài để đối phó với các hành động đe dọa chủ quyền của
mình ở Biển Đông.
Thứ
ba, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống
lại nước khác
Việt Nam khẳng định rõ ràng với thế
giới là không chấp nhận cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, sử
dụng một phần lãnh thổ Việt Nam để phát động chiến tranh xâm lược nước thứ ba.
Với
quân cảng Cam Ranh, chúng ta xác định đây là căn cứ riêng của hải quân Việt
Nam; đồng thời, Việt Nam đã cho xây dựng cảng quốc tế Cam Ranh để đáp ứng yêu
cầu của không ít quốc gia muốn cho tàu chiến được ghé đậu quân cảng này. Như
vậy, hoạt động của tàu chiến nước ngoài tại cảng quốc tế Cam Ranh không vi phạm
nguyên tắc "không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ
Việt Nam chống lại nước khác". Đến nay, Việt Nam đã đón tiếp nhiều tàu hải
quân nước ngoài, bao gồm Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Anh, Canada, New
Zealand, Nga, Trung Quốc …. đến thăm, ghé đậu tại cảng quốc tế Cam Ranh.
Điều đó thể hiện sự kiên định về nguyên tắc và uyển chuyển trong cách thực hiện
của Việt Nam. Việc vận dụng thực hiện các chính sách nói trên hoàn toàn tuân
thủ luật pháp quốc tế.
Thứ tư, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019
khẳng định: "Việt Nam chủ trương… không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực trong quan hệ quốc tế". Việc bổ sung điểm thứ tư này làm nổi bật
bản chất phòng thủ và hòa bình trong chính sách quốc phòng Việt Nam, đặc biệt
là trong bối cảnh Việt Nam nỗ lực nâng cao năng lực quân sự của
mình. Nguyên tắc không sử dụng vũ lực được đề cập từ Thỏa ước Hội Quốc
liên năm 1919 và Hiệp ước Briand-Kellog hay còn gọi là Hiệp ước Paris năm
1928. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc "không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế" được ghi nhận trong Điều
2, khoản 4 Hiến chương Liên Hợp quốc và Điều 2, khoản 2, tiết c Hiến chương
ASEAN. Do đó, Việt Nam chỉ nhắc lại một nguyên tắc đã được quốc tế thừa nhận
rộng rãi, thể hiện chính sách quốc phòng Việt Nam tôn trọng nguyên tắc cơ bản
của Liên Hợp quốc; đồng thời, góp phần nhấn mạnh tính phi pháp của các hành vi
gây hấn, đe dọa, cưỡng ép nước khác phải ngừng hợp tác thăm dò, khai thác dầu
khí ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia. Nhắc lại nguyên tắc "không sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực", Việt Nam muốn chuyển tải thông điệp: Mỗi
quốc gia cần hành xử có trách nhiệm, tương xứng với trách nhiệm và vị thế quốc
tế của mình.
Nguyên tắc này không mâu thuẫn với mục
đích hiện đại hóa quân đội cũng như nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang
Việt Nam, đó là bảo vệ đất nước, kể cả bằng cách sử dụng vũ lực khi cần thiết.
Nếu đất nước có chiến tranh, người Việt Nam buộc phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc,
gìn giữ hòa bình. Chúng ta kiên định chính sách quốc phòng "Không liên kết
với nước này chống nước kia". Việt Nam không liên minh quân sự, đồng thời
mở rộng quan hệ đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng nhằm mở rộng sự ủng
hộ quốc tế, phát triển năng lực nhận thức, hiểu biết của chúng ta.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019
viết: "Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể,
Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết
với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc
tế". Điểm này tạo cho Việt Nam sự linh hoạt, chủ động ứng phó trong những
tình huống phức tạp hoặc khi có yêu cầu cấp thiết bảo vệ Tổ quốc. Với tinh
thần "Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an
ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc", Việt Nam có thể cân nhắc, tham
gia một số hoạt động phối hợp bảo vệ chủ quyền vùng biển theo Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982 trên các diễn đàn khu vực, quốc tế.
Hiện nay quan hệ ngoại giao nhà nước
Việt Nam đã "phủ sóng" tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên thế
giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng ngày càng rộng mở với trên 80 quốc gia thuộc
cả 5 châu lục, đặc biệt Việt Nam có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Đây là thuận lợi chưa từng có, là cơ
hội để Việt Nam ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa
bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và quân đội trên trường quốc tế. Lịch
sử dân tộc ta trải qua mấy nghìn năm, công cuộc dựng nước luôn đi đôi với giữ
nước. Chính sách quốc phòng "bốn không" được đúc kết từ truyền thống
giữ nước đó và ngày càng chứng minh sự đúng đắn, phù hợp với Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét