TCCS - Một trong những thủ đoạn thâm độc mà các thế lực thù địch, phản
động và phần tử cơ hội chính trị thường sử dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và
chế độ là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ hiện hành trên đất nước ta. Do đó, nhận
diện, bóc trần thủ đoạn này là một nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Thực chất mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ
Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin
Có thể khẳng
định, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin có mối quan hệ biện
chứng, được thể hiện trên 3 phương diện chính sau đây:
Thứ nhất, chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Thứ ba, chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận cấu thành nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhận diện âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị khi
đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của mình là vấn đề mang tính quy luật của một đảng chính trị.
Như mọi cuộc chiến khác, muốn giành thắng lợi, người tranh đấu phải hiểu rõ âm
mưu và thủ đoạn của đối phương. Thực tế cho thấy, để đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ
hội chính trị đã sử dụng các thủ đoạn chủ yếu sau đây:
Trước hết, chúng
mưu toan phủ nhận sự tồn tại của “tư tưởng Hồ Chí Minh”, xuyên tạc
rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải là nhà
tư tưởng. Mặc dù giá trị, tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm định
bằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên
toàn thế giới, được thừa nhận bởi các học giả ở trong nước và nước ngoài, nhưng
các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị vẫn rêu rao xuyên tạc
rằng, “tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự tô vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Để
chứng minh cho điều đó, họ đưa ra các luận chứng mang tính chủ quan, khiên
cưỡng, như: Xét về nội dung, Hồ Chí Minh là người đọc nhiều, nhớ nhiều, giỏi
tổng thuật chủ kiến của người khác và không dẫn nguồn nên người ta cứ tưởng Hồ
Chí Minh là người đưa ra các quan điểm đó, nhưng thực chất thì không phải. Xét
về hình thức, Hồ Chí Minh chỉ có những bức thư ngắn, những bài viết, bài nói
ngắn chứ không có các tác phẩm đồ sộ như các nhà tư tưởng khác. Họ còn rêu rao
rằng, trong bối cảnh ngọn cờ Mác - Lê-nin mất “thiêng” khi chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ liên tiếp ở các nước Đông Âu, tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng
Cộng sản Việt Nam vội vã “nhào nặn” ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” để
“gia cố” cho nền tảng tư tưởng đang “lung lay” của mình. Do đó, tư tưởng Hồ Chí
Minh hoàn toàn là sản phẩm chủ quan, duy ý chí của Đảng Cộng sản Việt Nam với
mong muốn giữ lại quyền lãnh đạo của mình.
Những luận điệu
xuyên tạc này của các thế lực thù địch hoàn toàn đối lập với sự thật lịch sử.
Trên thực tế, nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh - sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin ở Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ làm biến đổi số phận của dân tộc Việt Nam mà còn
góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới, thúc đẩy
“bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ”. Cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều
nhà khoa học và chính khách lớn của thời đại cũng khẳng định giá trị và tầm vóc
thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc những kẻ chống phá “quay lưng” lại với
những bằng chứng hiển nhiên về sự tồn tại và giá trị to lớn, bền vững của tư
tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, họ không xuất phát từ lập luận khoa học, mà từ động
cơ chính trị đen tối. Đây là sự cố tình phủ nhận, “đổi trắng thay đen” nhằm phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với đặc tính
“tiền hậu bất nhất” của những kẻ chuyên “nói càn”, các thế lực thù địch, phản
động và phần tử cơ hội chính trị còn có một giọng điệu hoàn toàn khác là về
hình thức bề ngoài “giả bộ” làm ra vẻ ca tụng, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để
phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Để “hạ bệ” chủ nghĩa Mác - Lênin,
họ đưa ra nhiều lý do khác nhau. Đầu tiên, họ vin vào“yếu tố thời đại”,
biện bạch rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với bối cảnh của thế kỷ XIX,
cùng lắm là đầu thế kỷ XX, chỉ thích hợp với văn minh công nghiệp, trong khi
bây giờ nhân loại đã ở thế kỷ XXI; trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu
hóa, sứ mệnh của giai cấp công nhân đã khác đi, vai trò của trí thức “lên ngôi”
nên chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên lỗi thời và bị lịch sử vượt qua. Đây là cách
lập luận rất “hàm hồ”, bởi cho dù thời đại mà chúng ta đang sống rất khác với
thời đại mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin sống, nhưng những biến đổi của nó
vẫn không vượt ra ngoài những quy luật chung nhất mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin
khám phá ra. Với đặc tính “mở”, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là lý luận và phương
pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà chưa có một
chủ nghĩa nào có thể thay thế.
“Yếu tố địa lý” cũng là một
lý do mà các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị thù địch vin
vào để phủ nhận một cách vô căn cứ chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo họ, chủ nghĩa
Mác - Lênin không phải là sản phẩm của các nước phương Đông cũng như Việt Nam,
mà là học thuyết “ngoại lai”, “nhập ngoại” từ phương Tây nên không phù hợp với
điều kiện xã hội của Việt Nam - một xã hội phương Đông với nền kinh tế tiền tư
bản chủ nghĩa. Họ còn “lu loa”: Khi chủ nghĩa Mác - Lênin đã “chết” trên chính
quê hương của C. Mác, của V.I. Lênin, rộng hơn là ở cả châu lục mà nó sinh ra,
nhưng những người cộng sản Việt Nam vẫn cứ theo đuổi nó, “hà hơi tiếp sức” cho
nó thì đó là tư duy bảo thủ. Có thể thấy, những kẻ đưa ra luận điệu này đã cố
tình không hiểu sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa và tầm nhìn thời
đại trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù chủ nghĩa Mác - Lênin có
nguồn gốc lý luận trực tiếp từ phương Tây, nhưng khi được bổ sung bằng “dân tộc
học phương Đông”, thì “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng ở đó”(tức là ở phương Đông),
như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng khẳng định và nỗ lực thực hiện.
Thủ đoạn được các
thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị sử dụng nhiều nhất để
phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Theo họ, sự sụp đổ này chứng tỏ chủ
nghĩa Mác - Lê-nin sai lầm từ bản chất, chứ không phải là do nó được nhận thức
sai, vận dụng sai và vì thế, khẩu hiệu “chủ nghĩa Mác - Lênin bách chiến, bách
thắng” đã hoàn toàn mất giá trị. Họ cố tình không hiểu rằng, tính bền vững của
chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết khác là ở chỗ, nó dựa trên một thế
giới quan khoa học là phép biện chứng duy vật, và sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa
xã hội hiện thực có nhiều khuyết tật và chậm được sửa chữa, chứ không phải là
sự sụp đổ của một học thuyết khoa học.
Một thủ đoạn khác
được các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị đưa ra để mưu
toan phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là sự khác biệt
giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ cho rằng, chủ
nghĩa Mác chủ trương đấu tranh giai cấp còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chủ trương
đại đoàn kết toàn dân tộc và là “người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải
theo chủ nghĩa cộng sản...” Sau khi đưa ra nhiều “cơn cớ” đầy tính ngụy biện,
họ đi đến kết luận hàm hồ rằng: Lúc này, chỉ cần nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh
là đủ, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là “đáng giá” và vì thế, cần loại bỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng.
Việc các thế lực
thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị giả vờ “đề cao” tư tưởng Hồ Chí
Minh, đem tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn
trái với quan điểm, tư tưởng và tình cảm của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1927, Người đã khẳng định: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lê-nin. Người từng nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ
nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Câu nói đó đã nói lên
sự lựa chọn tiên quyết và sự kiên trì của Người đối với chủ nghĩa Mác và sau này
là toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin. Người còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Lênin đối với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản”. Khi viết Di chúc, Người gọi việc từ giã cõi đời của mình
là “đi gặp các cụ Các Mác, cụ Lênin”, bởi giữa các bậc vĩ nhân ấy là sự đồng
điệu về khát vọng giải phóng con người và “tình hữu ái vô sản” thiêng liêng.
Thậm chí, trong lần trả lời phỏng vấn cuối cùng vào ngày 15-7-1969, Người khẳng
định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải
nhấn mạnh rằng... trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ
nghĩa Mác - Lênin”. Như vậy, từ lúc rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi đọc
bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa” của V.I. Lênin cho đến tháng ngày cuối cùng của cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều gắn bó với chủ nghĩa Mác - Lê-nin bằng tình yêu và lòng biết ơn vô
hạn.
Phải khẳng định rằng, việc “đề cao” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin thực
chất là một âm mưu đen tối, thủ đoạn tinh vi của các thế lực
thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị. Sự nguy hiểm của nó là ở chỗ,
dễ làm cho người ta ngộ nhận, tin theo, bởi nó “đánh vào” tình yêu lãnh tụ và
tinh thần tự tôn dân tộc. Thực chất, đây không phải là sự ca ngợi hay đề cao tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà chỉ là thủ pháp “nâng lên để hạ xuống”, tìm cách cô lập,
tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi ngọn nguồn lý luận chủ yếu của nó để qua đó,
làm suy yếu và tiến tới phủ định luôn cả tư tưởng Hồ Chí Minh. Thâm độc hơn,
thông qua phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những kẻ chống
phá còn muốn phủ nhận toàn bộ cương lĩnh, đường lối của Đảng được hoạch định
trên nền tảng tư tưởng đó để đi đến mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ hiện hành và định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Tiếp tục đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn đem tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính
trị
Lâu nay, để tiến
hành chiến lược “diễn biến hòa bình” - “cuộc chiến tranh không khói súng”,
“khâu đột phá” mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị
thường sử dụng là tấn công trên mặt trận tư tưởng. Việc đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một thủ đoạn nhằm phủ định đường lối và vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kích động bạo loạn lật đổ để thay đổi
thể chế chính trị hiện hành ở nước ta. Chừng nào chưa đạt được mục đích của
mình, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị sẽ còn chống
phá bằng các hình thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Để bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta phải mài sắc vũ khí lý luận để đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị nói chung và âm mưu, thủ
đoạn đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói riêng. Theo
đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, nâng
cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin, về động cơ đen tối của các thế lực thù
địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị khi phủ nhận mối quan hệ này. Cần
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ rằng, mối quan hệ giữa chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa cội nguồn và phát
triển, giữa cái chung và cái đặc thù nên “tuy hai mà là một, tuy một mà là
hai”. Vì thế, không thể tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa
Mác - Lênin, cũng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa
Mác - Lênin và ngược lại. Cho dù tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều điểm sáng tạo,
nhưng lại thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở chiều sâu bản chất, ở lý
tưởng giải phóng con người... Việc các thế lực thù địch, phản động và phần tử
cơ hội chính trị mưu toan tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, cố tình lờ đi mối quan hệ biện chứng giữa hai hệ thống tư tưởng, lý
luận này không phải là do chưa có đủ thông tin hay chưa có phương pháp nghiên
cứu phù hợp, mà là sự chủ ý xuyên tạc, bịa đặt và lừa bịp nhằm thực hiện “diễn
biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hai là, đẩy mạnh công
tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị để cán bộ, đảng viên hiểu rõ nội
dung, bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, kẻ thù đế quốc
từng dùng “trăm phương ngàn kế” để ly gián nhân dân miền Nam với Bác Hồ, với
Đảng, với miền Bắc xã hội chủ nghĩa nhưng đều bị thất bại trước ý chí sắt đá
của nhân dân ta:
“Dù ai nói ngả,
nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào giậu, ngăn sân
Lòng ta vẫn vững là dân Bác Hồ”.
Lúc này cũng vậy,
nếu cán bộ và nhân dân đều thấu hiểu, thấu cảm giá trị đích thực, sức sống thời
đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì mọi sự xuyên tạc sẽ
trở nên vô nghĩa. Do đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số
23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”. Làm tốt công tác giáo dục lý
luận chính trị, đẩy lùi căn bệnh lười học lý luận chính trị ở một bộ phận cán
bộ, đảng viên, tích cực bồi đắp tri thức khoa học cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân chính là tạo “vắc-xin” phòng, chống sự xâm nhập của các luồng thông tin
xấu, độc, các quan điểm sai trái, thù địch.
Ba là, xây dựng đội
quân tinh nhuệ tác chiến mặt trận tư tưởng lý luận là các chuyên
gia giỏi, am hiểu về lý luận chính trị để đấu tranh trực diện với những âm mưu,
thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Các chuyên gia
khi tham gia vào trận chiến trên mặt trận đấu tranh tư tưởng phải có thái độ
vừa mạnh mẽ, điềm tĩnh, vừa kiên quyết, kiên trì; mọi lập luận đưa ra phải đạt
tới mức tinh thông, sắc bén về lý luận, phong phú, sinh động về thực tiễn. Theo
đó, cần thường xuyên và kịp thời cung cấp thông tin cho lực lượng này và tổ
chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan chức năng, lực lượng
nòng cốt về đấu tranh trên không gian mạng để họ trở thành những chiến sĩ thực
thụ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng.
Bốn là, kiên định và
tăng cường hơn nữa việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đất nước để thúc đẩy tiến trình đổi mới đất
nước, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và không ngừng nâng cao vị
thế của đất nước trên trường quốc tế. Đây thực chất là giải pháp dùng thực tiễn
để bảo vệ lý luận, bảo vệ chân lý, bởi thực tiễn là nơi kiểm nghiệm mọi lý
luận, mọi chân lý một cách xác thực nhất. Chúng ta phải “kiên định và vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng;
kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng… Đây là vấn đề mang
tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền
tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao
động”. Việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta chính là
minh chứng hùng hồn nhất cho sức sống, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay. Ngược lại, mỗi hành vi sai trái của
từng cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ chức đảng vô hình trung đều là sự “tiếp
tay” cho kẻ thù trong việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì thế,
việc tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải gắn chặt với công cuộc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh./.