Sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng, đó là nhận định không chỉ của Đảng, Nhân dân ta mà còn là của bạn bè
quốc tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu khách quan. Sự ra đời đó không chỉ là ý chí đơn thuần của
các nhà hoạt động cách mạng mà là sản phẩm của lịch sử.
Từ khi
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của
giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” khắc nghiệt của lịch sử những
thập niên đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng
sản Việt Nam là người duy nhất dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc. Như vậy,
cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham
gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất,
chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng nước ta. Chế độ chính trị một đảng
lãnh đạo là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình
lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc
gia, dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam thực sự được làm chủ cuộc sống của
mình, được sống trong tự do, hạnh phúc.
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, mục tiêu nhất quán
của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hướng lái Việt Nam phát triển đi theo quỹ đạo tư bản
chủ nghĩa.
Ở góc độ lịch sử, các thế lực thù địch và cơ hội chính trị
tập trung xuyên tạc, phủ nhận lịch sử và thành quả đấu tranh cách mạng vẻ vang
của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng quy chụp Đảng có nhiều sai lầm
trong quá khứ và dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời
kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để độc quyền lãnh đạo
đất nước. Chúng viện dẫn phiến diện và xuyên tạc thực tiễn lịch sử để cố chứng
minh chế độ một đảng lãnh đạo là “sai lầm”, rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt
Nam trên chính trường thì dân tộc ta không phải tiến hành mấy cuộc chiến tranh
lâu dài và đau thương như thế; và rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không “tiếm
quyền” thì Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ các nước phát triển từ lâu.
Bên cạnh
đó, ở góc độ thực tiễn, chúng cường điệu một số hạn chế, khuyết điểm trong công
tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nhất là một số hiện tượng đơn lẻ,
biến nó thành phổ biến, tất yếu của chế độ một đảng lãnh đạo, rồi quy kết vào
cái gọi là “lỗi hệ thống” - ám chỉ hệ thống chính trị do một đảng lãnh đạo; đổ
lỗi cho Đảng ta về sự tụt hậu kinh tế so với những nước láng giềng như “tập
trung nỗ lực vào vấn đề chính trị, thay vì vấn đề kinh tế”, “sợ hao mòn quyền
kiểm soát về chính trị và kinh tế của Đảng”.
Chúng tập
trung ve vãn, tâng bốc, lôi kéo, mời chào, tặng cho đủ thứ danh hiệu mỹ miều những
kẻ phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cơ hội, hữu khuynh, xét lại, những hành
động chống Đảng, chống chế độ. Còn những người đảng viên chân chính thì bị nhạo
báng, chế giễu là bảo thủ, cứng nhắc, là giáo điều, nịnh hót. Từ đó, chúng đối
lập những người lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này
với lớp đảng viên khác, mưu toan gây ra mâu thuẫn nội bộ. Chúng tung ra luận điệu
trong Đảng có phe phái khác nhau, dựng chuyện “đấu đá cung đình” trong các dịp
diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng nhằm kích động gây chia rẽ lãnh đạo cấp
cao của Đảng...
Từ đó,
chúng tung ra luận thuyết “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tốt hơn chế độ
một đảng lãnh đạo”, cố chứng minh “chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo là đối lập
với dân chủ, đồng nhất với độc tài, cản trở sự phát triển”, còn “đa nguyên, đa
đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội”.
Chúng yêu cầu Đảng tự nguyện rời bỏ vai trò lãnh đạo, vì theo chúng: “Đảng chỉ
giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, còn trong xây dựng kinh tế thì nên trao quyền
cho lực lượng chính trị khác”.
Gần đây,
các loại đối tượng chống đối chính trị còn triệt để lợi dụng các sự kiện pháp
lý quan trọng như sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; thảo luận, sửa đổi, bổ sung, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trên các lĩnh vực để tập trung
tuyên truyền các luận điệu chính trị phản động nhằm bác bỏ “tính chính danh”,
“tính hợp pháp, hợp hiến” và “tính chính đáng” về vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị và xã hội. Chúng tập trung phê phán, đả kích hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta, so sánh khập khiễng, vô căn cứ,
không có thực tiễn đặc thù lịch sử của Việt Nam với hệ thống chính trị các nước
khác. Thông qua đó, chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi bỏ Điều 4 Hiến
pháp và các điều khoản khác liên quan; hướng lái hệ thống pháp luật rập khuôn,
máy móc với mô hình chính trị nước ngoài, xa lạ với thực tiễn Việt Nam, chủ yếu
là mô hình tam quyền phân lập. Khi không đạt được mục đích, chúng lại quay sang
luận điệu cũ rích và lạc hậu “con đường thứ ba” để tác động chuyển hóa mô hình
chính trị và pháp luật nước ta.
Hoạt động
tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và xã hội được các thế lực chống cộng
và cơ hội chính trị ráo riết tiến hành và ngày càng trở nên nguy hiểm, hậu quả
khó lường. Đây là một trong những nhân tố có thể tạo ra nguy cơ dẫn đến “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn. Trong thời gian qua, đặc biệt
thời điểm diễn ra các hoạt động kỷ niệm 92 năm Ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (03/02/1930 - 03/02/2022), các thế lực thù địch sẽ tăng cường hơn nữa các
hoạt động chống phá nhằm vào vai trò lãnh đạo của Đảng để phá hoại an ninh
chính trị nội bộ, tác động hướng lái chủ trương, đường lối chính sách và nhân sự
của Đảng với mức độ quyết liệt hơn và công khai, trắng trợn hơn. Vì vậy, để bảo
vệ vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng cần làm tốt những nội dung sau:
Một là,
về quan điểm, cần kiên trì khẳng định, đồng thời giữ vững và củng cố vững chắc
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội
trong bất kỳ hoàn cảnh nào; không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị đòi đa nguyên,
đa đảng.
Hai là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ nhằm
giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và
xã hội; bảo đảm cho chủ trương, đường lối của Đảng đi đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, thể hiện được bản chất cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân; phù
hợp với quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ của cách
mạng; phản ánh được ý chí, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân.
Ba là, phát hiện kịp thời những tư tưởng đối
lập do các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội trong bộ máy lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, lực lượng vũ trang; xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật đối
với các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Tăng cường
lãnh đạo và quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình,
internet, các cuộc hội thảo khoa học xã hội về những vấn đề tôn giáo, dân tộc,
dân chủ, nhân quyền... Không xảy ra sơ hở để bên ngoài có thể lợi dụng thu thập
bí mật, xuyên tạc, truyền bá quan điểm tư tưởng thù địch và kích động phá hoại.
Bốn là, kiên quyết phê
phán, bác bỏ các quan điểm tư tưởng và ý đồ thực hiện “đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập”; kiên trì và tăng cường đấu tranh phê phán hệ tư tưởng tư sản, tư
tưởng xã hội - dân chủ, chủ nghĩa thực dụng. Kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường
lối chính trị của Đảng, đặc biệt là mục tiêu, lý tưởng, con đường mà Đảng, Bác
Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn; phát triển đường lối đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đấu tranh bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mối quan hệ giữa
các thiết chế quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa; có biện pháp thiết thực
củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các thành tố trong hệ
thống chính trị và Nhân dân.
Năm là, tiếp tục
nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng để luận chứng bác bỏ có sức thuyết phục từng luận điểm.
Trên cơ sở đó, huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc tiến hành phản
bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, với các luận điệu
phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn
thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta trong công tác xây dựng Đảng,
trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ
nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Lợi dụng những hạn chế,
khuyết điểm của một số cán bộ ở cơ sở trong thực hiện chủ trương, chính sách để
nói xấu, công kích Đảng và Nhà nước, không phải là hành động “vì dân”, “vì nước”,
mà là hành động “đục nước béo cò”, làm tổn hại đến sự ổn định chính trị - xã hội,
đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Không phải vì những khuyết
điểm, hạn chế nào đó; không phải vì sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; cũng không phải vì việc giải quyết
chưa tốt một vụ việc nào đó mà có thể bất mãn chế độ, chống đối lại Đảng và Nhà
nước./.
Nguyễn Trường Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét