Chủ Nhật, 16 tháng 1, 2022

SỰ KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM


Vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4/1989 đến tháng 9/1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, chế độ mới được dựng lên với nét chung nổi bật là: Tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, thực hiện đa nguyên về chính trị và chế độ đa đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền đại nghị và nền kinh tế theo cơ chế thị trường; các chính đảng vô sản đều đổi tên đảng và chia rẽ thành nhiều phe phái; tên nước, quốc kì, quốc huy và ngày quốc khánh thay đổi, theo hướng chung gọi là Các nước cộng hòa. Sự sụp đổ đó tạo nên “cơn chấn động” chính trị lớn nhất trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. 

Sự sụp đổ này như một hiệu ứng Đôminô kéo theo toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng. Đây là một tổn thất rất lớn làm ảnh hưởng đến hoạt động của phong trào công nhân quốc tế. Từ sự kiện đó đã diễn ra làn sóng phản đối của các phần tử cực đoan đòi xét lại chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng học thuyết Mác đã lỗi thời phải thay đổi trong những điều kiện, tình hình mới cho phù hợp. Sự xuyên tạc chủ nghĩa xã hội làm cho quần chúng nhân dân còn thấy hoang mang lo sợ và ngay cả ở Việt Nam cũng có một số tư tưởng hoài nghi, dao động trước luận điểm phản động. Khi xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ các thế lực phản động quốc tế hy vọng rằng chủ nghĩa xã hội sẽ lần lượt sụp đổ ở các nước còn lại. Nhưng như cả thế giới đều thấy, cuối thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của các đảng cầm quyền, các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đứng vững, đã vượt qua thời kỳ hiểm nghèo nhất, từng bước ổn định và phát triển.

Có thể nói, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn. Đây chỉ là một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội chứ không phải là sự sụp đổ của lí tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã từng tung bay trên những khoảng trời rộng lớn, từ bờ sông Enbơ đến bờ biển Nam Hải rồi vượt trùng dương rộng lớn đến tận hòn đảo Cuba nhỏ bé anh hùng. Ngọn cờ ấy tuy có dừng tung bay ở bầu trời Liên Xô và một số nước Đông Âu nhưng rồi đây sẽ lại tung bay trên nhiều khoảng trời mênh mông xa lạ: Bầu trời Đông Nam Á, bầu trời châu Phi, Mĩ Latinh và ngay trên cả cái nôi ồn ào, náo nhiệt của chủ nghĩa tư bản phương Tây… Đó là ước mơ của nhân loại tiến bộ và đó cũng là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Và đó cũng chính là triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quan trọng nhất là sự đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa. Chính công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước là động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới. Thực tiễn thành công trong hơn 40 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 35 năm qua là minh chứng hùng hồn, là sức sống mãnh liệt của tương lai chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng vững và phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là qui luật tiến hóa của lịch sử".

         Sự khủng hoảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô năm 1991 có nhiều nguyên nhân.

Có thể thấy sai lầm của cải tổ biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau:
      
Thứ nhất: Sự dao động về tư tưởng, lập trường chính trị dẫn tới mất phương hướng chính trị và từ bỏ nguyên tắc ở những thời điểm bước ngoặt, chấp nhận đa nguyên hệ tư tưởng và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận tập trung dân chủ là nguyên tắc cốt tử của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng không còn là một tổ chức chính trị cầm quyền mà trở thành một câu lạc bộ bàn suông. Nhà nước không còn quyền lực điều hành và không kiểm soát nổi tình hình đất nước. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

      Thứ hai: Không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Khi cải cách kinh tế tiến triển thì không kịp thời tiến hành cải cách chính trị. Đến khi cải cách kinh tế gặp khó khăn thì lại chuyển trọng tâm sang cải cách chính trị.

       Thứ ba: Phiêu lưu mạo hiểm trong chính sách, bước đi và biện pháp cải tổ. Đó là tăng tốc kinh tế - kỹ thuật thời kì đầu… là những tính toán chủ quan duy ý chí gây rối loạn kinh tế, mất ổn định xã hội. Cải tổ chính trị không dựa trên thực trạng kinh tế, tiến hành “dân chủ công khai” một cách mơ hồ, mở đường cho các thế lực phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội, thao túng xã hội, kích động, mị dân, lừa bịp quần chúng. Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.

       Thứ tư: Không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình hình ngày một xấu đi nghiêm trọng về đời sống vật chất, tinh thần tối thiểu của quần chúng, gây nên sự thờ ơ về chính trị, thậm chí chống lại công cuộc cải tổ. Mất cơ sở xã hội và bị phân liệt về tổ chức nên Đảng đã mất sức chiến đấu và mất vai trò lãnh đạo.

       Thứ năm: Các quan điểm mơ hồ, hữu khuynh, xét lại xung quanh vấn đế “tư duy chính trị mới”, phủ nhận đấu tranh giai cấp và cách mạng, tuyệt đối hóa lợi ích toàn cầu nhân loại, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản, tạo mảnh đất thuận lợi cho âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc.

       Thứ sáu: Để xảy ra xung đột, nội chiến dân tộc, sắc tộc ngày càng gay gắt, dẫn tới tan rã của Nhà nước Liên bang Xô viết.

         Cách đây h¬n 35 năm, cơn lốc “diễn biến hòa bình”“cách mạng màu” đã làm sụp đổ chÕ ®é xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu - đất nước nhiều năm là thành trì của CNXH, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng trên thế giới. Từ sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô vµ §«ng ©u, chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích, đáng chú ý một số vấn đề nổi lên sau đây:

Một : Xây dựng Đảng phải phải ngang tâm nhiệm vụ (đây là bài học quan trọng nhất), thường xuyên chăm lo xây dựng đảng cầm quyền và bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, đoàn kết thống nhất cao, xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ, nhất là lựa chọn và bố trí những cán bộ chủ chốt, bảo đảm thực sự vững vàng và tin cậy về chính trị. Trong tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”“cách mạng màu”, các thế lực thù địch tập trung chống phá làm cho đảng cầm quyền và bộ máy chính quyền suy yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm tha hóa biến chất đội ngũ cán bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, dẫn tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chính quyền, giành quyền lãnh đạo và kiểm soát các cơ quan quyền lực Nhà nước cho lực lượng đối lập, đưa đất nước ngả theo quỹ đạo của chñ nghÜa t­ b¶n. Vì vậy cần đặc biệt coi trọng xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, thực sự đoàn kết thống nhất và gắn bó mật thiết với nhân dân, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, lãnh đạo Nhà nước và xã hội có uy tín và hiệu quả; chăm lo làm trong sạch, lành mạnh hóa bộ máy chính quyền các cấp, thực sự là của dân, do dân và vì dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ quản lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tại báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã xác định về công tác xây dựng đảng là: củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước.

Hai: Cần tăng cường công tác chính trị-tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với phòng, chống “diễn biến hòa bình”“cách mạng màu”, coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và mang tính cấp thiết trong bảo vệ Tổ quốc. Công tác chính trị-tư tưởng phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong xây dựng hệ thống chính trị, nhất là đảng cầm quyền và các cơ quan quyền lực Nhà nước; được coi trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của đảng cầm quyền, hoạt động quản lý điều hành của Nhà nước và hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong tiến hành công tác chính trị-tư tưởng, cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở cần dành nhiều tâm huyết và trí tuệ đối với công tác rất hệ trọng và nhạy cảm này.

         Vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ, nhất là trong chuyển tiếp các thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong công tác tổ chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo đảm sự vững vàng và tin cậy về chính trị. Cần tỉnh táo và kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của đảng và cơ quan quyền lực Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị-tư tưởng và đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, không được tín nhiệm.

        Ba là: Đảng cầm quyền và bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết với nhân dân, có đường lối, chủ trương, chính sách và các hoạt động thực tiễn hợp lòng dân, có đội ngũ cán bộ đảng viên được nhân dân tin yêu và tín nhiệm, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân. Để lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, đảng cầm quyền, bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lòng dân, nắm chắc dân và quy tụ được sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ thì đảng sẽ mất quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính quyền sẽ bị lật đổ. Đảng cầm quyền và Nhà nước phải có đường lối, chủ trương, chính sách và các hoạt động thực tiễn hợp lòng dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội gắn với thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là ở những nơi còn nhiều khó khăn gian khổ, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo. Thường xuyên làm tốt công tác vận động nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo sự đồng thuận xã hội. Chủ động phát hiện và giải quyết kịp thời những bức xúc và bất bình của nhân dân, xử trí đúng pháp luật và an dân các vụ việc phức tạp nảy sinh, không cho lan rộng và kéo dài, không để các thế lực thù địch lợi dụng tạo cớ can thiệp. Điều rất hệ trọng và nhạy cảm là đội ngũ cán bộ phải thực sự tiền phong gương mẫu, gần gũi quần chúng, sâu sát cơ sở, được nhân dân tin yêu và tín nhiệm.

         Bốn là: Xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của đảng cầm quyền và sự quản lý điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng và suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lôi kéo và kích động nhân dân chống lại đảng cầm quyền và chính quyền đương nhiệm, làm chuyển hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của CNTB. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia, không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được nhiều việc làm và tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội và an sinh xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững.

        Năm là: Đảng cầm quyền phải nắm chắc LLVT, đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành và tin cậy về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng LLVT, nhất là quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh, thực sự trung thành và tin cậy về chính trị là một nguyên tắc chiến lược của đảng cầm quyền, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của quốc gia dân tộc và chế độ. Đảng cầm quyền phải thường xuyên làm tốt công tác chính trị-tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và quyết tâm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống; luôn giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với LLVT, nhất là quân đội và công an; đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và công an luôn thực sự trung thành và tin cậy về chính trị; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong quân đội và công an; thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đối với LLVT. Sự vững mạnh của LLVT không chỉ là nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, mà còn là yếu tố đặc biệt quan trọng bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, buộc các thế lực thù địch phải cân nhắc khi toan tính những âm mưu, thủ đoạn chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc, không có lực lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên, cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị...; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.

Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đang ra sức phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới có bước phát triển mới, sáng tạo mô hình phát triển kinh tế- xã hội đậm nét Việt Nam, đưa nước ta tiến bước vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta, phù hợp với xu thế thời đại.

Đ.Đ.H

1 nhận xét: