1. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân là tên của đội quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12-1944
đến tháng 5-1945. Đây là tổ chức quân sự được công nhận là tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân,
22-12-1944, sau này đã được chọn làm ngày thành lập của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Bối cảnh ra đời: Trước đòi hỏi của
tình hình đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy đến lúc phải
thành lập một lực lượng vũ trang chủ lực, nòng cốt lấy từ các cán bộ, đội viên
du kích năng nổ. Bác và Ban thường vụ Trung ương Đảng chỉ định đồng chí Võ
Nguyên Giáp đảm nhiệm công việc thành lập lực lượng vũ trang tập trung. Trong “Chỉ
thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân” của Bác Hồ, đã nói rõ
ý nghĩa lịch sử, nhiệm vụ của đội quân chủ lực đầu tiên:
- Tên: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân, nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền.
Vì muốn có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là tập trung lực lượng, cho
nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích
Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập
trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc
kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân,cho nên
trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực
lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi
phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của
địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội
này trưởng thành mãi lên.
- Đối với các đội vũ trang địa
phương: Đưa cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các các bộ đã huấn luyện đi
các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.
- Về chiến thuật: Vận dụng lối đánh
du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông, mai tây, lai vô ảnh, khứ vô
tung.
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác.
Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,
nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể
đi suốt từ Bắc chí Nam, khắp đất nước Việt Nam”.
2. Việt Nam Giải phóng quân là tên gọi
của QĐND Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 11-1945. Việt Nam Giải phóng quân thành
lập ngày 15-5-1945, tại Định Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên) trên cơ sở thống
nhất từ các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng
các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước, theo nghị quyết của Hội
nghị quân sự Bắc Kỳ (tháng 4-1945) họp tại Hiệp Hòa (Bắc Giang).
Bối cảnh lịch sử: Trong lúc cả nước
ta sục sôi không khí cách mạng thì Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào những
ngày kết thúc.
Ngày 7-5-1945, phát xít Đức - Ý đầu
hàng Đồng minh. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông,
chủ lực của phát xít Nhật; sự sụp đổ hoàn toàn của phát xít Nhật chỉ còn tính từng
giờ.
Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam được họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến 15-8-1945 trong không khí hết sức
khẩn trương. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị
quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Theo lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung
ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước
đứng dậy. 14 giờ ngày 16-8-1945, đơn vị chủ lực của Việt Nam giải phóng quân xuất
phát từ Tân Trào tiến đánh thị xã Thái Nguyên. Mục tiêu tiến công của Giải
phóng quân lúc này không còn là những đồn bốt, châu lỵ mà là những căn cứ chính
của địch, các thị trấn, thị xã. Lời căn dặn của Bác Hồ: “Lúc này thời cơ thuận
lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đôt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ngày 21-8-1945, quân Nhật đầu hàng.
Tuyên Quang được giải phóng. Thắng lợi của cuộc đánh chiếm các tỉnh lỵ Thái
Nguyên, Tuyên Quang là thắng lợi của Quân giải phóng đã phối hợp chặt chẽ với lực
lượng chính trị, dùng cả quân sự, chính trị và binh vận để tiến công địch.
Chỉ trong vòng 12 ngày (từ 14 đến
25-8-1945), Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã thắng lợi trong cả nước. Chính quyền
cách mạng của nhân dân được thành lập từ Trung ương đến khắp các thôn xã. Ngày
2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.
3. Vệ quốc đoàn: Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã lâm vào tình thế hiểm nghèo, thù trong, giặc
ngoài. Ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào giải giáp quân Nhật. Ở
phía Nam, thực dân Anh mở đường cho thực dân Pháp tiến vào với âm mưu biến Việt
Nam trở về thời kỳ thuộc địa. Lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiến
hành sách lược mềm dẻo “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để giữ vững nền độc lập non
trẻ. Trước sức ép của quân Tưởng Giới Thạch, ta linh động đưa Đảng ta vào hoạt
động bí mật, Đảng tuyên bố “tự giải tán”. Để đáp ứng yêu sách của quân Tưởng
đòi giải tán quân đội chính quy, tháng 11-1945, Việt Nam giải phóng quân đổi
tên thành Vệ quốc đoàn (còn gọi là Vệ quốc quân). Lúc này quân số quân đội ta
khoảng 50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ
và Trung Bộ. Một số chi đội đã “Nam tiến” để giúp quân dân miền Nam chống lại
thực dân Pháp đang tấn công xâm lược trở lại ở Nam Bộ.
4. Quân đội Quốc gia Việt Nam: Ngày
22-5-1946, theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vệ quốc đoàn đổi tên
thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất
của Bộ Tổng tham mưu. Quân đội ta lúc này tổ chức biên chế thống nhất theo
trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội… Cùng với việc xây dựng quân đội quốc gia, Chính
phủ ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng
bán vũ trang, bao gồm: dân quân ở nông thôn và tự vệ ở đô thị. Trong thời kỳ
1945-1950, có những người lính trong quân đội thực dân, đế quốc sang xâm lược
Việt Nam, bị cảm hóa bởi cuộc kháng chiến vệ quốc chính nghĩa của quân dân ta
đã tình nguyện gia nhập Quân đội ta, tham gia chiến đấu và công tác ở nhiều
lĩnh vực như chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật, huấn luyện, quân y, quân giới, tuyên
truyền... Nhiều người được giao trọng trách và phong quân hàm sĩ quan. Họ đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam trong buổi
ban đầu xây dựng lực lượng.
5. Quân đội nhân dân Việt Nam: Từ
năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt
Nam. Tên gọi "Quân đội nhân dân" là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý
nghĩa "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ".
Cũng thời gian này, các đại đoàn
(đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312,
320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực
của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia
Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với
các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến
thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 7-5-1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ
thuộc địa của thực dân Pháp.
Tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam
trở nên quen thuộc với nhân dân từ đó đến nay. Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm
1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân
dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là
vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15-2-1961, Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng
tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội
nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác,
tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ
tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, chống
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là
chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972; kết thúc thắng lợi bằng
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30-4-1975, thống nhất đất nước, mở ra
thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Như vậy, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam là một cái tên mới xuất hiện, nhưng là một bộ phận không tách rời của Quân
đội nhân dân Việt Nam. Thực tế lịch sử cho thấy, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh,
vai trò lịch sử vẻ vang của mình. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam hợp nhất với Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Từ 34 cán bộ, chiến sĩ ngày đầu thành lập, đến nay, QĐND Việt Nam đã phát
triển lớn mạnh với đầy đủ các quân chủng, binh chủng với vũ khí, trang bị kỹ
thuật hiện đại. QĐND Việt Nam “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” đã
lập nên nhiều chiến công trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm
lược và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhằm phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, ngày 17-1-1989, Ban Bí thư T.Ư Đảng đã ban hành Chỉ thị lấy
ngày 22-12, Ngày thành lập QĐND Việt Nam là Ngày hội quốc phòng toàn dân.
Ngày 9-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định công nhận Khu
rừng Trần Hưng Đạo là di tích quốc gia đặc biệt. Những năm qua, Khu di tích
được quan tâm đầu tư, tôn tạo, là địa chỉ “đỏ” về nguồn của các thế hệ cựu
chiến binh, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam, đảng viên, nhân dân, là địa chỉ
giáo dục truyền thống sinh động cho thế hệ trẻ.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa