Việt Nam có một nền văn hóa dân
tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước. Chính nhờ sức mạnh của nền văn hóa đó mà
dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt Nam
không hề bị đồng hóa và cuối cùng đã vùng lên giành lại nền độc lập.
Trong một nghìn năm độc lập tự chủ, dân tộc ta đã đánh thắng mọi kẻ địch
xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần. Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc
đã để lại những áng thiên cổ hùng văn như: “Nam quốc sơn hà nam đế cư” của
Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô Đại cáo”
của Nguyễn Trãi…
Dưới thời đại Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một áng hùng văn kiệt xuất. Tiếp đó, Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến cũng là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài chín năm kết thúc bằng thắng lợi lịch sử
Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời
hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống
lại kẻ thù xâm lược.
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa”.
Lúc đó, nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày
23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã
nổ súng đánh ta ở Nam Bộ.
Chủ tịch HCM một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên
kháng chiến, mặt khác đàm phán với Chính phủ Pháp để tranh thủ hòa bình. Người ký với đại diện
chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua
Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô.
Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống
trị Việt
Sau đó, Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp tạm ước 14-9-1946. Ngày
16-9-1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10, Người gặp
Đácgiăngliơ ở Vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được
thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946.
Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã
tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư
buộc ta phải hạ vũ khí.
Trước tình hình đó, ngày 18, 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Nội),
Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết
định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Từ ngày 3 đến 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà
Nội) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, ngày 19 tháng 12, trên căn
gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
20 giờ ngày 19 tháng 12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20 tháng 12
tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội), đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy là mặc dù Chủ tịch HCM tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng
“cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con
đường nào khác, Chủ tịch HCM phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến
tranh phi nghĩa. Chủ tịch HCM không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm
lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống
kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là
quan điểm cơ bản mà Chủ tịch HCM luôn nắm vững trong khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đó cũng là
quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động
viên toàn dân đứng lên chiến đấu: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là
văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng
chiến. Đó là độc lập tự do hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị
mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy, có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã
hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến
đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.
"Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc. Hễ là người Việt
Trong lời kêu gọi ấy, Chủ tịch HCM đã
trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào
hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và
tư tưởng quân sự Chủ tịch HCM là ở hai chữ “toàn dân”.
Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về
khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một lời kêu
gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân:
“Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.
Hưởng ứng Lời kêu gọi này, quân và dân Hà Nội, mùa đông năm 1946 đã nêu
cao tinh thần “Quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh” nay đã trở thành truyền thống
của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí
chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần của bộ đội, phát
huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi
mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Chủ tịch HCM về xây dựng
quân đội cách mạng.
Kết thúc lời kêu gọi, Chủ tịch HCM
khẳng định niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một
lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta. Việt
Đúng như dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau chín năm vào năm
1954 - “Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã
chứng tỏ sức mạnh của lòng yêu nước phi thường của quân và dân ta, sự lãnh đạo
tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc gian khổ chiến
đấu và hy sinh dành lại một nửa Việt Nam hòa bình làm tiền đề cho một Việt Nam
độc lập và thống nhất. Ba mươi năm sau vào mùa Xuân 30/4/1975, đội quân bách
chiến bách thắng của Người đã cắm cờ chiến thắng lên nóc Đinh Độc lập, kết thúc
cuộc chiến tranh mười nghìn ngày đem lại độc lập tự do cho dân tộc, Bắc - Nam
thống nhất, sum họp một nhà.
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là Hịch cứu nước của Tổ Quốc, là một áng hùng văn sáng chói những nét đặc
sắc của tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh.
75 năm đã trôi qua
nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành
ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời
gian, nhưng giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim
chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu
triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí
đánh giặc, giữ nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc. Ngày
nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là
giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng
nhất định chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong
khu vực và trên trường quốc tế./.
Bá Tuân
bài rất hay
Trả lờiXóa