GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI
CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1945
NCS
(ST)
Nhân dịp Ngày Quốc
khánh Việt Nam 2/9/2021, trân trọng giới thiệu bài viết "Giá trị lịch sử
và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945" của TS.Vũ Ngọc Am
đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản:
Ngày 2/9/1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử
do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời
của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Thời gian đã qua đi hơn 2/3 thế kỷ, nhiều chi tiết
nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực.
Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể
hiện trong Tuyên ngôn.
Tuyên ngôn Độc lập ngày
2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn
sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp
cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của
các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.
Tuyên ngôn Độc lập là
một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với
hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp
lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước
toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển. Nội
dung của Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
nghiên cứu, làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi
với dụng ý xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập
bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Điều này
cần phải hiểu và lý giải rõ.
Một là,
Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh,
Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí
tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập
của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những
thành quả văn hoá của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong
đó đã khẳng định những quyền cơ bản của con người. Đó là "quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” … “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã
được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ
sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình
và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Hai
là,
trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc
cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi
tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát
triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó
là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các
dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực
dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã
gương cao.
Ba
là,
đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả
hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh
ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư
tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một
nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa
sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên
tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.
Như vậy, có thể thấy,
với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và
trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát
triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế,
tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của
Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về
quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân
loại. Hơn 75 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng
trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Với tinh thần đó mà
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong
suốt hơn 75 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực
sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả
thời cơ và thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt
qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một
lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Nguồn:
tuyengiaokontum
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa