HVC
Quá trình hình thành ngày thương binh liệt sĩ
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn bọn xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến có nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ
và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “Nhân ái, thủy chung” của dân
tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ, đặc
biệt là những người bị thương hoặcđã anh dũng hy sinh.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ
bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương
khác... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”.
Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự
của Tổng Hội.
Chiều ngày 28/5/1946 tại Nhà hát Lớn Hà
Nội, Tổng Hội tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia
nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương.
Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát Lớn Hà
Nội đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở
đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc
áo rét mà Bác đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ,
ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề
đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số
người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên.
Các đồng chí thương binh, gia đình nhiều
liệt sĩ gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta
đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp
phần đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của các gia đình chính sách trong thời
kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Năm 1946, giữa bộn bề công việc của
những ngày tháng cam go chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho các thương binh, liệt sỹ. Người đã
ra thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi với một tấm lòng thành
kính.
“Tôi muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào
và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh của mình cho nền tự
do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc
trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ
đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Trước yêu cầu thực tế đó, cùng với việc
tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương
tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí
quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu
nước của dân tộc.
Ngày 27/7 chính thức được chọn là ngày
thương binh liệt sỹ
Để chủ động công tác này trong cả nước,
ngày 26/2/1947, Phòng thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc
gia Việt Nam) được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập
Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt
Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha thông
tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Thái Nguyên). Nội dung
cuộc họp là thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày kỷ niệm Thương binh
Liệt sĩ và bảo vệ công tác Thương binh liệt sĩ.
Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí
lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Ngày 27/7/1947, một cuộc mít
tinh quan trọng đã được diễn ra tại Thái Nguyên (có 2000 người tham gia). Tại
đây Ban tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chủ Tịch. Trong thư Người viết:
“... Thương binh là những người đã hy sinh gia
đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ
quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu ...”.
“... Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn,
phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
“... Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ
quốc, đã hy sinh cho đồng bào".
“... Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm
mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ".
“... Tôi cũng rất mong muốn đồng bào sẵn sàng
giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần...”.
Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một
tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Từ năm 1947, ngày
Thương binh liệt sĩ được tổ chức thường kỳ hàng năm. Năm nào vào dịp này, Hồ
Chủ Tịch cũng có thư và quà gửi anh chị em thương binh và các gia đình liệt sĩ.
Tháng 7/1954 sau chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ, Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề
chiến sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh. Từ năm 1955, ngày 27/7 ngày
Thương binh được đổi thành ngày Thương binh liệt sĩ.
Trong suốt 24 năm trên cương vị người
đứng đầu Nhà nước, Bác đã giành sự quan tâm đặc biệt đến các thương binh, liệt
sỹ. Là người lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đã
thấu hiểu và đánh giá cao những hy sinh, mất mát của các thương binh, liệt sỹ
và thân nhân gia đình của họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong lời dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“... Đối với những người đã dũng cảm hy sinh
một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm
cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp
với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực, cánh sinh”.
“... Đối với các Liệt sỹ, mỗi địa phương cần
phải xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm để ghi công sự hy sinh anh dũng của
các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”.
“... Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và
liệt sỹ, mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu
ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có
công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Trong Những ngày tháng 7 năm 2021,
trên khắp mọi miền của Tổ quốc, toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta đang chuẩn
bị Lễ kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ. Việc làm này thể hiện sự biết ơn, tri
ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với những gia đình đã có người hy sinh vì
Tổ Quốc. Làm tốt công tác Thương binh Liệt sĩ và chính sách đối với những người
có công với cách mạng chính là phát huy đạo lý "Uống nước nhớ
nguồn", đền ơn đáp nghĩa của dân tộc; là thể hiện ý thức, trách
nhiệm, lòng biết ơn, khơi dậy tinh thần yêu đất nước, yêu dân tộc Việt Nam; từ
đó khơi dậy niềm tự hào về truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc; giữ vững
niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc./.
bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa