BẦU CỬ LÀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỬ TRI
Dungkhuat.com
Thời gian gần đây, thông qua các trang mạng xã hội như: Việt Tân, Chân trời mới Media, Dân Việt… các đối tượng phản động, cơ hội, chống đối chính trị tự xưng là các “nhà dân chủ”, ráo riết mở chiến dịch với nhiều chiêu trò nhằm phá hoại bầu cử Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XV và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đáng chú ý, các đối tượng tập trung xuyên tạc, hạ thấp vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử; xuyên tạc thể chế chính trị, vị trí, vai trò hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp; kích động gây chia rẽ nội bộ, tạo tâm lý hoài nghi trong nhân dân về tình hình nội bộ Đảng, Nhà nước ta; kêu gọi “tẩy chay bầu cử”… Đây thực chất những âm mưu, thủ đoạn nhằm tạo bất ổn trong quá trình chuẩn bị bầu cử; thúc đẩy Việt Nam “cải cách chính trị” theo thể chế “đa nguyên, đa đảng”, “tam quyền phân lập”, hướng tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.
Là những công dân chân chính của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, mỗi chúng ta cần nhận thức rõ bầu cử ĐBQH
và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của cử tri, đã được Hiến pháp năm 2013
hiến định tại Điều 6: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước”.
Thực hiện dân chủ đại diện thông qua Quốc hội
và hội đồng nhân dân
Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ, dân là gốc của quyền
lực nhà nước, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải xuất phát từ ý chí, ý
nguyện của nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân.
Dân chủ trong xã hội được biểu hiện dưới hai hình thức
là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Việc nhân dân bỏ phiếu bầu ĐBQH và
đại biểu HÐND, bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra, giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước, kiến nghị với các cơ quan nhà nước chính là hình thức dân chủ
trực tiếp.
Dân chủ đại diện là hình thức dân chủ mà người dân được
lựa chọn người đại diện mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước, đó là Quốc
hội và HĐND. Hiến pháp năm 2013 tại Điều 79 hiến định: “ĐBQH là người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân
dân cả nước”. Điều 113 của Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “HĐND là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành,
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương
do luật định, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đủ 18
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc
hội, HĐND các cấp. Quyền bầu cử và ứng cử là của công dân, là quyền được hiến
định và việc thực hiện các quyền này phải theo quy định của pháp luật.
Do vị trí đặc biệt quan trọng của Quốc hội và HĐND nên
những người tham gia ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp phải đáp ứng những
tiêu chuẩn nhất định theo quy định của Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó, các
tiêu chuẩn cơ bản đối với ứng viên là: Trung thành với Tổ quốc, nhân dân và
Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác; có trình độ văn hóa, chuyên môn,
có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm
vụ ĐBQH; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được
nhân dân tín nhiệm...
Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20-6-2020 của Bộ Chính trị về
lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026 đã yêu cầu: “Kiên quyết không giới thiệu ứng cử ĐBQH,
đại biểu HĐND các cấp những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là
những người sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, xu
nịnh, kiêu ngạo, quan liêu, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng, Nhà nước”.
Bảo đảm bốn nguyên tắc: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín
Đây là bốn nguyên tắc bầu
cử ĐBQH và HĐND các cấp ở nước ta hiện nay. Bốn nguyên tắc này đã
được quy định tại Luật Bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND và cũng được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng
như là một phương thức bầu cử tiến bộ.
Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong bầu cử bảo đảm để
mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam-nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú (trừ những người mất
trí hay những người bị tước quyền bầu cử theo quy định của pháp luật), đến tuổi
trưởng thành đều được trao quyền bầu cử. Yêu cầu của nguyên tắc này là nhà nước
phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng
lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo
đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân
trong bầu cử.
Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND của nước ta
quy định ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố
chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử; các tổ chức phụ trách bầu cử
được thành lập công khai, có sự tham gia của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và đoàn thể nhân dân. Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất
trong cả nước từ 7 giờ đến 19 giờ (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định
của luật). Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào
danh sách cử tri. Danh sách cử tri và danh sách ứng cử viên được lập và niêm
yết công khai để cử tri tìm hiểu, giám sát và lựa chọn...
Bình đẳng trong bầu cử là
nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu
cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Mỗi cử tri có một
phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau, không phụ
thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo... Nguyên tắc bình
đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại
biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp
xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được
nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu
bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người
khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật
phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ
người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật
không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu
đến nơi ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự
theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài đối với việc bỏ phiếu của cử tri. Cử tri bầu
ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai
được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai
được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu
bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu. Mục đích của nguyên tắc này là
nhằm bảo đảm tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.
Tại nhiều nước trên thế giới đều có quy định quyền bầu
cử và ứng cử là những quyền chính trị cơ bản của công dân. Tại Việt Nam, quyền
này đã được quy định trong Hiến pháp-đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất
trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp năm 1946-bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước
ta đã ghi nhận quyền này tại Điều 18 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18
tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người
mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu
cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân
tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử”. Quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của
công dân trong bầu cử vẫn tiếp tục được khẳng định xuyên suốt trong các bản
Hiến pháp năm 1959 (tại Điều 23), Hiến pháp năm 1980 (tại Điều 57), Hiến pháp
năm 1992 (tại Điều 54) và Hiến pháp năm 2013 (Điều 27).
Mỗi chúng ta cần nhận thức rõ bầu cử ĐBQH và HĐND các cấp vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của cử tri; do đó chúng ta phải tích cực tham gia bầu cử.
Trả lờiXóa