Hiện nay, xuất hiện nhiều luận điệu kêu gọi chúng ta nên thực hiện "phi chính trị hóa", "dân sự hóa" quân đội. Trong thể chế tư bản chủ nghĩa, quân đội nhiều nước được xây dựng theo mô hình đội quân nhà nghề với mục tiêu, cách thức hoạt động hoàn toàn khác với Quân đội nhân dân Việt Nam. Song nhìn từ sự thất bại, sụp đổ của một số chính quyền trong "Mùa xuân Arab" cho chúng ta có thêm những bài học thực tiễn sinh động khẳng định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối xây dựng Quân đội ta hiện nay.
1. VÀI NÉT ĐẶC THÙ VỀ QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ARAB
Quân đội của hầu hết các quốc gia Arab đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong bộ máy quyền lực do đặc điểm lịch sử và chế độ chính trị. Sau Chiến tranh
thế giới lần hai đã định hình vai trò của quân đội trong các diễn biến chính trị.
Quân đội trở thành trung tâm quyền lực của nhà nước và cũng là lực lượng tổ chức
hàng loạt cuộc đảo chính vũ trang. Theo thống kê của trang Defense News, trong
22 năm, từ năm 1949 đến 1971, giới quân sự đã tiến hành 8 cuộc đảo chính ở
Syria và 3 cuộc đảo chính ở Iraq. Việc giới quân sự nắm chính quyền góp phần
quyết định sự ổn định tình hình kinh tế-xã hội và loại bỏ mâu thuẫn sắc tộc,
tôn giáo.
Nhiều nguyên thủ quốc gia ở Bắc Phi và Trung Đông xuất thân là sĩ quan chỉ
huy cao cấp trong quân đội, như các cựu Tổng thống Ai Cập Mohamed Naguib, Gamal
Hussein, Anwar Al-Sadad và Hosni Mubarak, hay Tổng thống Libya Muammar Gaddafi.
Tổng thống Ai Cập hiện nay Abdel Fattah el-Sisi từng là sĩ quan cấp tướng, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng và phần lớn quan chức các bang, bộ, ngành đều từng là tướng
lĩnh quân đội. Vì vậy, một điều dễ hiểu là quyền lực thực sự của nhà nước thường
tập trung trong tay các chỉ huy quân đội.
2. “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI – SỰ NGUY HIỂM KHI CÓ CHÍNH BIẾN
Bạo loạn, lật đổ theo mô hình phản kháng phi bạo lực là cách mà nhiều cuộc
cách mạng màu đã sử dụng và nó đã được áp dụng triệt để trong "Mùa xuân
Arab". Trong đó, người dân được sử dụng như những chiến binh trên chiến
trường để loại bỏ chính thể một quốc gia sở tại theo học thuyết chính trị “Phản
kháng phi bạo lực” của chuyên gia bất bạo động người Mỹ Gene Sharp. Trong
"Mùa xuân Arab", người dân bị lợi dụng như “những chiến sĩ cách mạng”,
còn "vũ khí" là chiến tranh tâm lý và chiến tranh thông tin.
Tại Tunisia, quân đội gần như có truyền thống không can dự vào chính sự quốc
gia. Chính quyền Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali khi đó không chú trọng xây
dựng quân đội như đối với cảnh sát và lực lượng đặc nhiệm. Khi biểu tình bạo loạn
xảy ra, tướng Rashid Ammar-chỉ huy quân đội, chủ trương đáp ứng những thay đổi
theo yêu cầu của “các chiến sĩ cách mạng đường phố” hơn là bảo vệ chế độ cầm
quyền của Tổng thống Ben Ali. Do đó, khi chính biến xảy ra, Tổng thống Ben Ali
đã phải bỏ chạy ra nước ngoài. Một trong những nguyên nhân sâu xa là do ở quốc
gia này, trong 3 thập niên làm tổng thống (1957-1987), ông Habib Bourguiba đã cấm
binh lính không tham gia chính trị. Thậm chí, cấm binh lính tham gia đảng cầm
quyền. Sau đó, chính quyền của ông Ben Ali cũng chưa đầu tư nhiều cho xây dựng
quân đội, ngân sách đầu tư còn eo hẹp.
Ở Ai Cập trước đây, ban đầu quân đội thể hiện sự trung thành mạnh mẽ và giữ
vị thế trung lập trước các cuộc biểu tình trên quảng trường Tahrir ở Cairo.
Ngày 7-2-2011, trên Tạp chí Foreign Affairs, phóng viên Joshua Stacher đã viết:
“Trong suốt mười ngày qua, nhà nước Ai Cập vẫn chưa phải chứng kiến sự sụp đổ của
chế độ”. Nhưng về sau, quân đội đã không giữ được sự kiên trung đó. Trên một số
xe chiến đấu bộ binh và xe bọc thép xuất hiện khẩu hiệu “Quân đội đứng về phía
người biểu tình”. Trước sức ép của làn sóng biểu tình nhận được sự ủng hộ của
giới quân sự, Tổng thống Mubarak buộc phải tuyên bố từ chức và trao quyền lãnh
đạo đất nước cho Hội đồng quân sự tối cao.
3. TƯ NHÂ HÓA, DÂN SỰ HÓA QUÂN ĐỘI – CÁI GIÁ PHẢI TRẢ
Đối với trường hợp Libya, cơ cấu của các lực lượng vũ trang nước này khác hẳn
với các quốc gia khác. Trong khi tiềm lực kinh tế rất mạnh nhưng quân đội Libya
chỉ với 50.000 người lại không được hiện đại hóa, trang bị lạc hậu. Một trong
những sai lầm của Tổng thống Gaddafi chính là chỉ ưu tiên đầu tư cho các lực lượng
tinh nhuệ và bán quân sự là người thân tín, họ hàng của mình, thậm chí tuyển dụng
lính đánh thuê ở nước ngoài.
Quân đội đã thiếu sự gắn kết và có dấu hiệu chia rẽ ngay từ đầu thời kỳ
"Mùa xuân Arab" xảy ra. Liên tiếp diễn ra các vụ đào tẩu của sĩ quan
và binh lính. Chỉ khoảng một tuần sau cuộc can thiệp quân sự của NATO, đã có
6.000 binh sĩ Libya (chiếm 12% quân số) rời bỏ hàng ngũ, và con số này tăng lên
40.000 quân (80%) chỉ sau hai tháng. Vì vậy, quân đội mất sức chiến đấu, không
đủ sức chống đỡ các đợt tấn công quân sự từ bên ngoài. Kết cục là Tổng thống
Gaddafi bị sát hại, đất nước rơi vào nội chiến, chia rẽ kéo dài, đến nay vẫn
chưa thành lập được chính phủ chuyển tiếp.
Ở Yemen, trên thực tế, quân đội bị phân chia thành nhiều đơn vị riêng biệt
dưới quyền chỉ huy của những người thân tín trong dòng họ của cựu Tổng thống
Ali Abdullah Saleh, những người cùng bộ lạc và thành phần thân tín với ông. Những
đơn vị này sẵn sàng sử dụng bạo lực để đàn áp người biểu tình. Trong khi đó, một
số sư đoàn và đơn vị quân đội thuộc các quân khu nắm quyền lại chủ trương ủng hộ
“những người biểu tình ôn hòa”. Chính vì vậy, “Mùa xuân Arab” ở Yemen đã dẫn tới
các hành động đổ máu. Trước sức ép dữ dội của các cuộc biểu tình, Tổng thống
Saleh buộc phải tuyên bố từ chức.
4. VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI Ở QUỐC GIA NGĂN CHẶN THÀNH CÔNG : MÙA XUÂN ARAB”
Israel là một trong số rất ít quốc gia ngăn chặn thành công "Mùa xuân
Arab", tất nhiên không chỉ do xây dựng quân đội mà còn từ nhiều vấn đề ngoại
giao và chính sách khác, song TS Lê Đình Tĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến
lược ngoại giao (Học viện Ngoại giao) phân tích: Israel đã tư duy chiến lược
theo hướng ngoại giao đi trước một bước, tạo thế trận “phòng thủ từ xa” và có
năng lực quốc phòng dựa trên công nghệ cao với sức mạnh răn đe đáng kể từ bên
trong.
Từ năm 1948 đến nay, Israel đã học tập mô hình huy động lực lượng quốc
phòng toàn dân với quân đội thường trực là xương sống và lực lượng dự bị làm chủ
lực. Năm 1959, Israel ban hành luật nghĩa vụ quân sự, chính thức thực hiện thể
chế quốc phòng "toàn dân làm lính, huy động nhanh chóng". Israel đã
xây dựng hơn 20 bộ luật liên quan đến công tác “toàn dân làm lính, động viên
toàn quốc”. Theo luật của Israel, 3 lần/năm, tất cả công dân, ngoại trừ vì lý
do tôn giáo và sức khỏe, không phân biệt giới tính, phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự ở độ tuổi 18. Sau khi tốt nghiệp trung học, trước tiên họ phải phục vụ
quân đội. Học thuyết an ninh quốc gia mới của Israel làm nổi bật 4 nguyên tắc
cơ bản: Chiến bại ắt diệt vong, phòng thủ tích cực, coi trọng răn đe để tránh
chiến tranh, đánh nhanh thắng nhanh...
Đó là những nền tảng hết sức quan trọng giúp nước này ngăn chặn thành công
"Mùa xuân Arab" từ những ngày đầu tiên. Theo nghiên cứu “Israel và
Mùa xuân Arab” của tác giả Benedetta Berti, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) có
quan điểm thống nhất với Chính phủ Israel đối với tiến trình “lây lan” của
"Mùa xuân Arab" kể từ khi bùng phát tại Tunisia. Nhằm chuẩn bị phản ứng
tốt nhất, quân đội Israel đã phân tích các cuộc biểu tình ở Tunisia và đặc biệt
chú ý đến trường hợp của Ai Cập lúc đó để rút ra bài học cho riêng mình. Quân đội
Israel cũng chuẩn bị kế hoạch đối phó với khả năng xảy ra như ở Lebanon và một
số khu vực trên bán đảo Sinai khi một số nhóm lợi dụng tình hình rối ren, hỗn
loạn và mất an ninh trong nước để lập các cơ sở chống đối hay xây dựng các đường
dây buôn lậu vũ khí xuyên quốc gia, qua đó tiếp tay cho lực lượng chống chính
phủ.
Ngoài ra, IDF cũng yêu cầu chính phủ tăng ngân sách cho quân đội, kéo dài tạm
thời thời gian nghĩa vụ bắt buộc cũng như thành lập các đơn vị phản ứng nhanh mới
nhằm giúp lực lượng này luôn có đủ nhân lực và nguồn lực để hỗ trợ chính phủ
trong trường hợp xảy ra các vụ biểu tình thành bạo loạn. Hơn hết, quân đội
Israel cũng bắt đầu chú ý đến lĩnh vực không gian mạng sau khi nhận thấy mạng
xã hội hay internet có thể làm “điên đảo” tình hình chính trị cũng như lôi kéo
dư luận theo hướng bất lợi cho thể chế các nước láng giềng.
5. CHỦ ĐỘNG ĐỐI PHÓ VỚI “CHIẾN TRANH PHI QUY ƯỚC”
"Mùa xuân Arab" còn cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của "chiến
tranh phi quy ước". Năm 1962, Tổng thống Mỹ J.Kennendy đã nêu ra khái niệm
“chiến tranh phi quy ước”, cho rằng “đây là một loại hình chiến tranh lợi dụng
triệt để các cuộc bạo loạn; mới về cường độ nhưng cũ về nguồn gốc; một cuộc chiến
tranh du kích, chống phá, nổi loạn...”. “Chiến tranh phi quy ước” đã được vận dụng
triệt để ở Trung Đông-Bắc Phi, thậm chí ghi rõ trong “Điều lệnh Tác chiến phi
quy ước” (ATP 3-05.1) xuất bản ngày 6-9-2013: “Chiến tranh phi quy ước” là các
hoạt động được tiến hành để thúc đẩy một phong trào phản đối hay nổi dậy nhằm
gây sức ép, làm tê liệt, lật đổ một chính phủ hoặc thế lực cầm quyền thông qua
hoặc phối hợp với các hoạt động của lực lượng bí mật, lực lượng hỗ trợ và quân
du kích. Loại hình chiến tranh này được cho là rất hiệu quả, gắn kết với chiến
lược “diễn biến hòa bình”, tạo ra kết hợp “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật
đổ.
Tháng 5-2019, trình bày trước Quốc hội, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ
Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết: Từ
thực tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, những năm gần đây và dự
báo chiến tranh trong tương lai, ngoài chiến tranh truyền thống còn xuất hiện
chiến tranh phi quy ước, chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, chiến
tranh không gian mạng...
Tiến hành “chiến tranh phi quy ước”, thế lực thù địch sử dụng tổng hợp các
biện pháp phi vũ trang và vũ trang, bằng các hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn, lật đổ, thúc đẩy phong trào phản đối hay nổi dậy của quần chúng bị lôi
kéo, do lực lượng phản động bên trong tiến hành, được sự hỗ trợ, can dự quân sự
của lực lượng bên ngoài, nhằm gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị,
xã hội, an ninh, quốc phòng... tạo sức ép, làm tê liệt, mất hiệu lực quản lý của
Nhà nước, triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, cần phải tiếp tục có sự phát triển mới về tư duy lý luận quốc
phòng, quân sự cũng như có các chính sách, giải pháp chiến lược để đối phó kịp
thời, hiệu quả với “chiến tranh phi quy ước”. Cần tiếp tục triển khai tích cực,
hiệu quả Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam với những tư duy mới
về xác định các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, phương thức tác chiến
chiến lược...
6. KHẲNG ĐỊNH TÍNH ĐÚNG ĐẮN TRONG CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TA
Từ thực tế trên càng cho thấy những luận điệu kêu gọi "phi chính trị
hóa" đối với Quân đội ta là không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần đặc
biệt coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm
cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đó là chủ
trương nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta xuyên suốt 76 năm chiến đấu,
xây dựng và trưởng thành của quân đội. Ở Việt Nam, bất luận trong hoàn cảnh
nào, lực lượng vũ trang cũng luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải là lực lượng chính trị tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với Nhà nước và nhân dân. Phải thực hiện hiện
đại hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như ứng phó với các loại hình chiến
tranh mới.
` Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là dù có xây dựng quân đội chính quy, hiện
đại đến đâu cũng chưa đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc nếu không gắn với xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng thế trận an
ninh nhân dân vững chắc; trong đó phải đặt lên hàng đầu xây dựng "thế trận
lòng dân". Đó chính là một trong những “cẩm nang” giữ nước từ sớm, từ xa.
Biển Đông – Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét