“Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sai lầm lịch sử” mà
một số người thường rêu rao là luận điệu sai trái. Trước thềm Đại hội XIII của Đảng,
họ càng tăng cường đưa ra luận điệu này. Chúng ta cần nhận diện, đấu tranh,
phản bác quan điểm sai trái đó.
Lợi dụng việc Đảng ta công khai, lấy ý
kiến nhân dân tham gia, góp ý vào Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII,
các thế lực thù địch, phản động rêu rao rằng: “Kiên định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội”, kiên định với “chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” là
“lạc nhịp”. Thủ đoạn họ thường sử dụng là tạo dựng, xuyên tạc bản chất khoa
học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng. Phương thức chung là tuyệt đối hóa
hiện tượng thay cho bản chất, “lập lờ đánh lận con đen”, hòng gây mơ hồ, mất
niềm tin của nhân dân vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Họ triệt để lợi dụng công
nghệ thông tin, internet, các trang mạng xã hội, website để đăng tải, chia sẻ,
phát tán quan điểm sai trái nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội nói chung và chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, lợi dụng sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, họ cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam “bảo
thủ” với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là trái quy luật, “nếu Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục kiên định với chủ nghĩa Mác thì đừng trông chờ gì vào đường
lối Đại hội XIII”(!), v.v. Các luận điệu trên sai về khoa học và phản động về
chính trị, bởi một số lý do sau:
Một là, chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ sự thay thế giữa
các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là hoàn toàn khách quan, tuân theo
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất lỗi thời, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất mới
thì tất yếu nó bị lực lượng sản xuất mới phá vỡ nhằm thay thế bằng quan hệ sản
xuất phù hợp hơn. Và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sẽ tiến bộ
hơn, tất yếu thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời. C. Mác
và Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “Các lực lượng sản xuất mới đã vượt quá hình thức tư
sản của việc sử dụng chúng; và sự xung đột ấy giữa các lực lượng sản xuất và phương
thức sản xuất hoàn toàn không phải là sự xung đột sinh ra chỉ từ đầu óc người
ta,... mà là có thật, khách quan, ở bên ngoài chúng ta, không phụ thuộc vào ý
chí hoặc hành động của chính ngay những người đã tạo ra nó”1. Vì vậy, “Chủ
nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột có thật ấy
vào trong tư duy, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột ấy, trước hết
trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ vì sự xung đột ấy, tức là giai
cấp công nhân”2. Theo đó, tính tất nhiên là chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời, phát
triển trong lòng xã hội tư bản cũ đang sụp đổ.
Lý luận Mác – Lênin cũng chỉ ra hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa phải trải qua “một thời kỳ và hai giai đoạn”. Một thời kỳ là
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn: giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất so
với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng nó không tự phát hình
thành mà thông qua vận động của các quy luật về kinh tế, xã hội, con đường đấu
tranh cách mạng xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản để xây dựng xã hội
mới. Đồng thời, chỉ rõ giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh
đạo cách mạng vô sản để lật đổ giai cấp tư sản; giai cấp duy nhất có khả năng
xây dựng và đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong những năm bôn ba ở nước ngoài, Người đã
tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng giá trị nhân văn của xã hội chủ nghĩa hiện
thực ở nước Nga để tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp
bức, bóc lột, xâm lược, đô hộ của chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Bởi vậy, muốn
giành được độc lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Người đã để lại di sản vô cùng quý báu cho
cách mạng Việt Nam, đó là hệ thống quan điểm cơ bản về con đường, phương pháp
cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới nhưng không đổi màu,
là phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn Việt Nam. Do vậy, những luận điệu
cho rằng do chủ nghĩa Mác – Lênin đã sụp đổ, Đảng Cộng sản Việt Nam bị khủng
hoảng về tư tưởng lý luận nên phải lấy “tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng” là không đúng.
Ba là, đường lối đúng đắn, sáng tạo hòa quyện “ý Đảng, lòng
dân” về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Ngay từ năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua, tuy rất
ngắn gọn, nhưng đã xác định rõ đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Từ đó, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu chiến đấu nhất quán, xuyên
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Mỗi nhiệm kỳ Đại hội
của Đảng là một chặng đường cách mạng có mục tiêu, đối tượng, yêu cầu, nhiệm
vụ, kế hoạch khác nhau về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thành quả đạt được
của nhiệm kỳ trước đã tạo tiền đề, thuận lợi cho nhiệm kỳ sau. Năm 1991, Đảng
đã đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó chỉ ra sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đến Cương
lĩnh năm 2011 phát triển sáng tạo thành tám đặc trưng. Mỗi kỳ Đại hội đều chỉ
ra tính đặc thù của thời kỳ quá độ ở Việt Nam, đánh giá những thành quả to lớn
về xây dựng chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự kiên định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời đã thể hiện tính
ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản; sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga sau là Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành
tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Liên Xô đã trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế
giới (sau Mỹ) với sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp
thế giới. Năm 1957, Liên Xô là quốc gia đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân
tạo. Năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh trái đất
mở ra kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Liên Xô là nước hàng đầu thế
giới về trình độ học vấn của nhân dân với tỷ lệ dân số có trình độ từ trung học
trở lên, có trên 30 triệu người “làm việc trí óc”, v.v. Rõ ràng, trong một thời
gian ngắn, chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa tuy
chưa hoàn thiện, nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so
với chủ nghĩa tư bản. Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội là một hiện thực, hoàn
toàn không phải là “giấc mơ” cũng chẳng phải là “ảo tưởng”!
Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam
đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, cải cách đạt được những thành tựu hết sức
quan trọng, vững chắc, được thế giới ngưỡng mộ. Mặc dù, chủ nghĩa tư bản đã
trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, với sự điều chỉnh, thích nghi
nhưng bản chất không bao giờ thay đổi, vẫn là xã hội áp bức, bóc lột, bất công.
Chủ nghĩa xã hội tuy gặp phải khó khăn, khủng hoảng, song với những thành tựu
ban đầu đã khẳng định tính chất ưu việt, tiến bộ hơn hẳn và tất yếu sẽ là tương
lai của xã hội loài người. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt
Nam xuất phát từ những thành tựu mang tính tất yếu đó.
Thứ năm, Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị, trí
tuệ, khả năng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ra đời trong phong
trào cách mạng của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân
dân Việt Nam làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ
dân tộc với nhiệm vụ giai cấp. Từ năm 1954 đến 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta
thực hiện đồng thời và thắng lợi hai chiến lược cách mạng là đấu tranh giải
phóng dân tộc ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sau giải
phóng miền Nam, đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn kiên định
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên quyết thực hành đường lối đổi mới, giữ
vững nguyên tắc, quyết “không đổi màu”.
Qua 35 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
ta đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Sự thực ấy không thể xuyên
tạc, bác bỏ. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, đã khẳng định:
đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực và vị thế như ngày nay; đồng
thời, tạo nên thời cơ mới cho cả dân tộc vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội
để chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn ở chặng đường
tiếp sau.
Với những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, một lần nữa
khẳng định: sự xuyên tạc và phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là vô căn cứ. Và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Nhân dân đã lựa chọn
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng; không một thế lực
nào có thể ngăn cản được tinh thần cách mạng tiến công của nhân dân ta trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét