Thứ Hai, 16 tháng 11, 2020

THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

 

                                                    TBH

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân(19) làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Điều đặc biệt là lần đầu tiên trong Hiến pháp, tại Điều 4, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, điểm 2 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Nội dung này ghi rõ trong Cương lĩnh 2011 là tất yếu, đương nhiên, bình thường vì đó là một trong những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng. Nhưng điều này thể hiện trong Hiến pháp với ý nghĩa là bộ luật căn bản của một nước thì hết sức đặc biệt. Điều đó tỏ rõ rằng Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của cả dân tộc; là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, mà còn thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân; có bổn phận, trách nhiệm với dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.

Cùng với Hiến pháp, trong những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản mang tính chiến lược liên quan đến công tác dân vận, tin tưởng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở như Nghị quyết Trung ương khóa VIII về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh” (6/1997); Chỉ thị 30 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cở sở” (18/2/1998); Kết luận 120 về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (7/1/2016); Hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả thực hiện Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (16/7/2018). Đó là những kết quả rất quan trọng, ít nhất là về mặt ban hành nghị quyết, văn bản quy định, rất đáng khích lệ. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác dân vận trong tình hình hiện nay, cần tập trung vào hai nhóm giải pháp sau đây:

Một là, hiểu thấu, quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa những nghị quyết, quy định, kết luận, văn bản liên quan đến chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, thực hành dân chủ.

Xét đến cùng, khi bàn về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, có hai nhóm vấn đề quan trọng liên quan mật thiết với nhau, đó là hiểu thấu và làm đúng. Phải rà soát lại tất cả những văn bản bản đã được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp triển khai nghiên cứu, quán triệt, học tập như thế nào. Một Đảng chân chính cách mạng vì dân, vì nước thì trước hết phải đưa ra được nghị quyết, chỉ thị, văn bản, quy định đúng đắn. Nhưng đó mới chỉ là quan trọng hàng đầu. Điều quan trọng hơn, có ý nghĩa quyết định là văn bản, nghị quyết đó đi vào thực tiễn, thâm nhập vào đời sống nhân dân như thế nào.

Khi bàn về tư cách của một đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đúc kết 12 điều và Đảng không được quên điều nào, trong đó điều 12 là: “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”.

Thực tế cho thấy không phải mọi nghị quyết, chỉ thị đưa ra, đi vào cuộc sống đều đúng và có ý nghĩa soi sáng, dẫn dắt từ đầu đến cuối. Xét cho cùng, “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Nghị quyết, chỉ thị là tổng kết kinh nghiệm của quần chúng, từ thực tiễn mà ra, rồi trở lại soi sáng thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình triển khai nghị quyết, chỉ thị, “ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước”.

Phải khẳng định rằng nhiều nội dung về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ đề ra trong các nghị quyết, chỉ thị rất đúng và hay, có tính khả thi. Nhưng do công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chưa tốt; có nơi làm hình thức, đối phó, thiếu công khai, minh bạch, Nhân dân thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không đầy đủ, nên việc Nhân dân bàn, giám sát và quyết định những vấn đề của địa phương, phát huy thật sự quyền làm chủ trong góp ý xây dựng Đảng, chính quyền còn hạn chế. Thậm chí “lâu nay, nhiều nơi cứ nói là thực hiện dân chủ, nhưng thực chất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở đó vẫn mượn danh hoặc nhân danh tập thể để hợp thức hóa những quyết định, ý chí chủ quan của cá nhân mình. Một số người có chức, có quyền còn quan cách, gia trưởng, thậm chí có những cá nhân, tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng”(23). Đây là điều đã được Bác Hồ cảnh báo từ thập kỷ 50 thế kỷ trước - khi người phê bình loại cán bộ “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”(24).

Những hạn chế, yếu kém như vậy phải được nghiêm túc xem xét, đánh giá, tổng kết, để chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, tổ chức hay cá nhân, tùy theo tính chất, mức độ, phạm vi để có các hình thức xử lý, kỷ luật đúng mức. Nếu không làm được như vậy, xem các nghị quyết đã thi hành thế nào, cái gì được, cái gì chưa được, lần sau lặp lại những khuyết điểm trước, thì nghị quyết chỉ là lời nói suông, làm mất lòng tin của Nhân dân.

Hai là, các tổ chức và cá nhân những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải làm đúng, làm tốt và khéo công tác dân vận, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tỏ rõ hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi nghiêm túc. Một dẫn chứng là vấn đề xuống với dân, bàn bạc với dân, tiếp công dân. Chúng ta đã có những quy định rất cụ thể. Theo đó, xuống với dân là để bàn bạc với dân, học hỏi dân; nghiêm túc tiếp công dân, đối thoại với dân là để thấu hiểu, thấu cảm, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, để quan tâm giải quyết những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân, chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ và thực hành dân vận. Những cách làm này, ngay sau khi nước nhà độc lập cách đây 75 năm, Hồ Chí Minh đã từng “đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn giấy, theo kiểu “đạo nhân phòng thủ”. Tức là phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miêng nói, tay làm”, đem lại chất lượng tốt, “đúng” và “khéo” trong công tác dân vận. Người phê bình loại cán bộ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần.

Những năm qua, nhìn tổng thể xã hội có hai bức tranh tương phản. Chỗ nào người lãnh đạo đứng đầu sợ dân, ngại, không dám tiếp dân, tiếp một cách qua loa, đại khái, sẽ tạo ra một bức tranh tối. Nơi nào người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nghiêm túc tiếp dân và xuống với dân thật sự, giải quyết thấu đáo những kiến nghị của dân, đứng về phía lợi ích chính đáng của người dân mà giải quyết những điểm nóng, phức tạp kéo dài, sẽ tạo ra bức tranh sáng. Tấm gương những cán bộ gần dân, sát dân là thể hiện một chính quyền thật sự thân thiện, trọng dân, vì dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”.

Cùng với cơ quan hành chính là vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận, các cơ quan chức năng, Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ. Một trong những vai trò, trách nhiệm nổi bật của Mặt trận là tuyên truyền, giải thích, vận động các tầng lớp Nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cách làm là phải “đúng” và “khéo”, không gò ép áp đặt một cách thô bạo; phải tạo tính tự giác của mỗi người và nhân rộng các điển hình tiên tiến, lấy cái tốt dẹp cái xấu. Phải hiểu dân, tin tưởng dân, biết chờ đợi dân. Chúng ta phải ghi tạc vào đầu lời dặn của Bác: “Nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”. “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Dân vận kém thì việc gì cũng kém”.

Công tác dân vận cũng như mọi vấn đề khác, điều có ý nghĩa quyết định là con người, vì mọi việc đều do người làm ra, trong đó cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị giữ một vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Sự gương mẫu của người lãnh đạo trong xây và chống, nói đi đôi với làm, có bản lĩnh, dũng khí tự phê bình trước Nhân dân và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình, sẽ truyền cảm hứng, tạo niềm tin cho Nhân dân. “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”.

Gần đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng với tiêu đề “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”. Bài viết nêu lại những bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ năm khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của Nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với Nhân dân; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”.

Ý kiến của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đích thực trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay. Thực hiện tốt, có chất lượng, hiệu quả những điều đó chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp đổi mới hiện nay./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét